法Pháp 句Cú 譬Thí 喻Dụ 經Kinh 卷quyển 第đệ 三tam
Kinh Pháp Cú Thí Dụ ♦ Quyển 3

喻Dụ 老Lão 耄Mạo 品Phẩm 第đệ 十thập 九cửu
Phẩm 19: Già Suy


昔tích 佛Phật 在tại 舍Xá 衛Vệ 國Quốc 祇Kỳ 樹Thụ 精Tinh 舍Xá 食thực 後hậu 為vì 天thiên 人nhân 帝đế 王vương 臣thần 民dân 四tứ 輩bối 弟đệ 子tử 說thuyết 甘cam 露lộ 法Pháp
Thuở xưa Đức Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, trong Rừng cây Chiến Thắng gần thành Phong Đức. Sau khi thọ trai, Ngài thuyết Pháp cam lộ cho trời, người, vua chúa, quan thần, nhân dân, và bốn chúng đệ tử.

時thời 有hữu 遠viễn 方phương 長trưởng 老lão 婆Bà 羅La 門Môn 七thất 人nhân 來lai 至chí 佛Phật 所sở
Bấy giờ có bảy vị trưởng lão thuộc dòng dõi Phạm Chí từ phương xa đến chỗ của Phật.

稽khể 首thủ 於ư 地địa 叉xoa 手thủ 白bạch 佛Phật 言ngôn
Họ cúi đầu đảnh lễ sát đất, chắp tay và thưa với Phật rằng:

吾ngô 等đẳng 遠viễn 人nhân 伏phục 聞văn 聖Thánh 化hóa 久cửu 當đương 歸quy 命mạng 而nhi 多đa 諸chư 礙ngại 今kim 乃nãi 得đắc 來lai 覲cận 覩đổ 聖Thánh 顏nhan 願nguyện 為vi 弟đệ 子tử 得đắc 滅diệt 眾chúng 苦khổ
"[Thưa Thế Tôn!] Chúng con là những người từ phương xa. Khi nghe được uy đức hóa độ chúng sanh của Phật, chúng con đã từ lâu muốn đến quy y. Nhưng do nhiều chướng duyên nên mãi tới hôm nay mới đến được và tận mắt chiêm ngưỡng tôn nhan. Chúng con muốn làm đệ tử của Ngài và tu hành để diệt trừ mọi khổ ách."

佛Phật 即tức 受thọ 之chi 悉tất 為vi 沙Sa 門Môn 即tức 令linh 七thất 人nhân 共cộng 止chỉ 一nhất 房phòng 然nhiên 此thử 七thất 人nhân 覩đổ 見kiến 世Thế 尊Tôn 尋tầm 為vì 得đắc 道Đạo 不bất 惟duy 無vô 常thường 共cộng 坐tọa 房phòng 中trung 但đãn 思tư 世thế 事sự 小tiểu 語ngữ 大đại 笑tiếu 不bất 計kế 成thành 敗bại 命mạng 日nhật 促xúc 盡tận 不bất 與dữ 人nhân 期kỳ 但đãn 共cộng 喜hỷ 笑tiếu 迷mê 意ý 三tam 界giới 佛Phật 以dĩ 三Tam 達Đạt 智Trí 知tri 命mạng 欲dục 盡tận
Đức Phật liền thu nhận họ để làm Đạo Nhân, và bảo bảy người họ cùng trú trong một căn phòng. Thế nhưng bảy người đó, tuy chí nguyện muốn đắc Đạo và dù đã thấy Thế Tôn, nhưng chẳng tư duy vô thường, mà chỉ cùng ngồi trong phòng để bàn bạc chuyện thế tục và cười đùa lớn tiếng. Họ chẳng biết mạng sống mỗi ngày giảm dần và cái chết chẳng hẹn một ai. Họ chỉ cùng nhau đùa giỡn và tâm ý mê muội trong ba cõi. Với trí tuệ của Ba Minh, Đức Phật biết thọ mạng của họ sắp hết.

佛Phật 哀ai 愍mẫn 之chi 起khởi 至chí 其kỳ 房phòng 而nhi 告cáo 之chi 曰viết
Bởi thế mà Phật khởi lòng thương xót, rồi đi đến căn phòng của họ và bảo rằng:

卿khanh 等đẳng 為vì 道Đạo 當đương 求cầu 度độ 世thế 何hà 為vi 大đại 笑tiếu 也dã 一nhất 切thiết 眾chúng 生sanh 以dĩ 五ngũ 事sự 自tự 恃thị
"Các thầy vì Đạo nên muốn cầu vượt khỏi thế gian. Thế nhưng sao lại cười nói inh ỏi? Tất cả chúng sanh lấy năm việc này để cậy nương.

何hà 謂vị 為vi 五ngũ
Những gì là năm?

一nhất 者giả 恃thị 怙hộ 年niên 少thiếu 二nhị 者giả 恃thị 怙hộ 端đoan 政chánh 三tam 者giả 恃thị 怙hộ 多đa 力lực 四tứ 者giả 恃thị 怙hộ 財tài 富phú 五ngũ 者giả 恃thị 怙hộ 貴quý 姓tánh
1. cậy nương tuổi trẻ
2. cậy nương đoan chánh
3. cậy nương sức mạnh
4. cậy nương giàu sang
5. cậy nương quý tánh

卿khanh 等đẳng 七thất 人nhân 小tiểu 語ngữ 大đại 笑tiếu 為vi 何hà 所sở 恃thị
Bảy người các ông đây cười đùa lớn tiếng, thì lấy gì để cậy nương?

於ư 是thị 世Thế 尊Tôn 即tức 說thuyết 偈kệ 言ngôn
Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:

何hà 喜hỷ 何hà 笑tiếu
念niệm 常thường 熾sí 然nhiên

深thâm 蔽tế 幽u 冥minh

不bất 如như 求cầu 定định


"Có gì mà vui sướng?
Thế gian luôn bốc cháy
Xấu ác chốn tối tăm
Chẳng bằng cầu định tuệ

見kiến 身thân 形hình 範phạm
倚ỷ 以dĩ 為vi 安an

多đa 想tưởng 致trí 病bệnh

豈khởi 知tri 不bất 真chân


Hãy quán thân thể này
Chớ cậy cho là an
Vọng tưởng tất sanh bệnh
Phải biết thân chẳng thật

老lão 則tắc 色sắc 衰suy
病bệnh 無vô 光quang 澤trạch

皮bì 緩hoãn 肌cơ 縮súc

死tử 命mạng 近cận 促xúc


Lúc già nhan sắc tàn
Bệnh tật không tươi sáng
Da nhăn cơ bắp teo
Cái chết sắp cận kề

身thân 死tử 神thần 從tùng
如như 御ngự 棄khí 車xa

肉nhục 消tiêu 骨cốt 散tán

身thân 何hà 可khả 怙hộ


Khi chết thức ra đi
Như người lìa bỏ xe
Thịt rã xương rải rác
Thân này làm sao hộ?"

佛Phật 說thuyết 偈kệ 已dĩ 七thất 比Bỉ 丘Khâu 意ý 解giải 望vọng 止chỉ 即tức 於ư 佛Phật 前tiền 得đắc 阿A 羅La 漢Hán 道Đạo
Khi bảy vị Bhikṣu [bíc su] nghe Phật nói kệ thì vọng niệm đình chỉ, tâm ý khai mở, và liền đắc Đạo Ưng Chân ở trước Phật.




昔tích 佛Phật 在tại 舍Xá 衛Vệ 精tinh 舍xá 為vì 諸chư 天thiên 人nhân 帝đế 王vương 說thuyết 法Pháp
Thuở xưa Đức Phật thuyết Pháp cho trời người và các quốc vương ở Tinh xá Kỳ Viên gần thành Phong Đức.

時thời 有hữu 婆Bà 羅La 門Môn 村thôn 五ngũ 百bách 餘dư 家gia 中trung 有hữu 五ngũ 百bách 年niên 少thiếu 婆Bà 羅La 門Môn 修tu 婆Bà 羅La 術thuật 為vi 人nhân 憍kiêu 慢mạn 不bất 敬kính 長trưởng 老lão 貢cống 高cao 自tự 貴quý 以dĩ 此thử 為vi 常thường
Đương thời có một thôn làng với khoảng hơn 500 gia đình thuộc dòng dõi Phạm Chí. Trong đó có 500 Phạm Chí trẻ tuổi và họ tu theo pháp Phạm Chí. Với bổn tánh kiêu mạn, bất kính người lớn tuổi, cao ngạo tự đại, và họ cho đó là lẽ thường.

五ngũ 百bách 梵Phạm 志Chí 欻hốt 自tự 議nghị 言ngôn
Có một hôm, 500 Phạm Chí bỗng nhiên bàn luận với nhau rằng:

沙Sa 門Môn 瞿Cù 曇Đàm 自tự 稱xưng 為vi 佛Phật 三Tam 達Đạt 權quyền 智trí 無vô 敢cảm 共cộng 論luận 者giả 吾ngô 等đẳng 可khả 共cộng 請thỉnh 求cầu 論luận 議nghị 事sự 事sự 詰cật 問vấn 知tri 為vi 何hà 如như
"Đạo sư Năng Nhân tự xưng là Phật, có trí tuệ vô ngại của Ba Minh, và chẳng ai dám luận nghị. Chúng ta hãy thỉnh Ngài đến luận nghị, và vặn hỏi muôn việc để biết hư thực thế nào?"

即tức 辦biện 供cúng 具cụ 往vãng 請thỉnh 佛Phật 來lai 佛Phật 與dữ 諸chư 弟đệ 子tử 往vãng 到đáo 梵Phạm 志Chí 村thôn 中trung 坐tọa 畢tất 行hành 水thủy 食thực 訖ngật 澡táo 手thủ
Và thế là, họ liền chuẩn bị những phẩm vật cúng dường và nghênh thỉnh Đức Phật đến. Bấy giờ Phật cùng các đệ tử đi vào trong thôn của các Phạm Chí. Tiếp đến Đức Phật ngồi xuống và lấy nước rửa tay. Khi đã ăn xong, Ngài rửa tay sạch sẽ.

時thời 有hữu 長trưởng 老lão 梵Phạm 志Chí 夫phu 婦phụ 二nhị 人nhân 於ư 此thử 村thôn 中trung 共cộng 行hành 乞khất 丐cái 佛Phật 知tri 其kỳ 本bổn 大đại 富phú 無vô 數số 曾tằng 作tác 大đại 臣thần
Đương lúc ấy có đôi vợ chồng Phạm Chí lớn tuổi và họ cùng đi xin ăn ở trong thôn này. Phật biết họ vốn là những người giàu sang vô cùng và ông lão đã từng làm quan lớn.

佛Phật 即tức 問vấn 諸chư 年niên 少thiếu 梵Phạm 志Chí
Nhân đó Phật liền hỏi các Phạm Chí trẻ tuổi rằng:

汝nhữ 等đẳng 識thức 長trưởng 老lão 婆Bà 羅La 門Môn 不phủ
"Các người có biết ông lão thuộc dòng dõi Phạm Chí đó chăng?"

皆giai 言ngôn
Mọi người đều đáp rằng:

曾tằng 識thức
"Dạ biết!"

又hựu 問vấn
Đức Phật lại hỏi rằng:

本bổn 為vi 何hà 似tự 也dã
"Có biết ông ta từng là người như thế nào không?"

曰viết
Đáp rằng:

本bổn 為vi 大đại 臣thần 財tài 富phú 無vô 數số
"Dạ thưa, ông ta vốn từng là một vị đại thần và có tài bảo vô số."


[Đức Phật lại hỏi rằng:]

今kim 者giả 何hà 故cố 復phục 行hành 乞khất 丐cái
"Nhưng nay sao lại đi xin ăn thế kia?"

皆giai 言ngôn
Mọi người đều đáp rằng:

散tán 用dụng 無vô 道đạo 是thị 以dĩ 守thủ 貧bần
"Dạ thưa, do ăn xài phung phí nên mới chịu bần cùng như thế."

佛Phật 告cáo 諸chư 婆Bà 羅La 門Môn
Phật bảo các Phạm Chí:

世thế 有hữu 四tứ 事sự 人nhân 不bất 能năng 行hành 行hành 者giả 得đắc 福phước 不bất 致trí 此thử 貧bần
"Trên đời có bốn việc mà mọi người chẳng dễ làm. Nếu ai có thể thực hành, thì họ sẽ được phước và không bị nghèo khổ.

何hà 謂vị 為vi 四tứ
Những gì là bốn?

一nhất 者giả 年niên 盛thịnh 力lực 壯tráng 慎thận 莫mạc 憍kiêu 慢mạn 二nhị 者giả 年niên 老lão 精tinh 進tấn 不bất 貪tham 婬dâm 妷dật 三tam 者giả 有hữu 財tài 珍trân 寶bảo 常thường 念niệm 布bố 施thí 四tứ 者giả 就tựu 師sư 學học 問vấn 聽thính 受thọ 正chánh 言ngôn
1. tuổi trẻ tráng kiện mà biết khiêm nhường và không kiêu mạn
2. tuổi già mà biết tinh tấn và không dâm dật
3. có tiền tài trân bảo mà luôn nhớ bố thí
4. tìm thầy học hỏi, lắng nghe và thọ trì Chánh Pháp

如như 此thử 老lão 公công 不bất 行hành 四tứ 事sự 謂vị 之chi 有hữu 常thường 不bất 計kế 成thành 敗bại 一nhất 旦đán 離ly 散tán 譬thí 如như 老lão 鵠hộc 守thủ 此thử 空không 池trì 永vĩnh 無vô 所sở 獲hoạch
Đây cũng giống như ông lão kia. Do chẳng thực hành bốn việc đó, cho rằng mọi thứ thường hằng, không biết việc thành bại và một mai đều ly tan, nên ông ta giống như con cò trắng già canh giữ cái ao khô--vĩnh viễn chẳng được gì.

於ư 是thị 世Thế 尊Tôn 即tức 說thuyết 偈kệ 言ngôn
Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:

晝trú 夜dạ 慢mạn 惰nọa
老lão 不bất 止chỉ 婬dâm

有hữu 財tài 不bất 施thí

不bất 受thọ 佛Phật 言ngôn

有hữu 此thử 四tứ 蔽tế

為vi 自tự 侵xâm 欺khi


"Ngày đêm lười kiêu mạn
Đã già còn dâm dật
Có tiền không bố thí
Chẳng vâng lời Phật dạy
Bị bốn việc đó che
Tự mình hại chính mình

咄đốt 嗟tá 老lão 至chí
色sắc 變biến 作tác 耄mạo

少thiếu 時thời 如như 意ý

老lão 見kiến 蹈đạo 踐tiễn


Thoáng chốc cái già đến
Hình sắc suy biến tàn
Thiếu thời tâm như ý
Tuổi già nạn bủa vây

不bất 修tu 梵Phạm 行hành
又hựu 不bất 富phú 財tài

老lão 如như 白bạch 鵠hộc

守thủ 斯tư 空không 池trì


Đã chẳng tu tịnh hành
Lại còn không tích của
Lúc già như cò trắng
Ôm giữ cái ao khô

既ký 不bất 守thủ 戒giới
又hựu 不bất 積tích 財tài

老lão 羸luy 氣khí 竭kiệt

思tư 故cố 何hà 逮đãi


Đã chẳng giữ giới luật
Lại còn không tích của
Già suy khí lực kiệt
Thử hỏi có ích gì?

老lão 如như 秋thu 葉diệp
行hành 穢uế 鑑giám 錄lục

命mạng 疾tật 脫thoát 至chí

不bất 容dung 後hậu 悔hối


Già như lá mùa thu
Thân tàn làm sao quản?
Bệnh tật bỗng kéo đến
Sau nuối tiếc ích gì?"

佛Phật 告cáo 梵Phạm 志Chí
Phật bảo các Phạm Chí:

世thế 有hữu 四tứ 時thời 行hành 道Đạo 得đắc 福phước 得đắc 度độ 可khả 免miễn 眾chúng 苦khổ
"Trên đời có bốn thời điểm mà nếu biết tu hành thì sẽ được phước, thoát khỏi sanh tử và thoát miễn khổ ách.

何hà 謂vị 為vi 四tứ
Những gì là bốn?

一nhất 者giả 年niên 少thiếu 有hữu 力lực 勢thế 時thời 二nhị 者giả 富phú 貴quý 有hữu 財tài 物vật 時thời 三tam 者giả 得đắc 遇ngộ 三Tam 尊Tôn 好hiếu 福phước 田điền 時thời 四tứ 者giả 當đương 計kế 萬vạn 物vật 憂ưu 離ly 散tán 時thời
1. lúc tuổi trẻ có sức khỏe dồi dào
2. lúc phú quý có nhiều tài bảo
3. lúc gặp Tam Bảo và siêng gieo trồng phước điền
4. lúc bình thường suy tư vạn vật đều vô thường và hoại diệt

行hành 此thử 四tứ 事sự 所sở 願nguyện 皆giai 獲hoạch 必tất 得đắc 道Đạo 跡tích
Những ai tu hành bốn việc này, mọi sở nguyện tất đều thành tựu và nhất định sẽ thấy dấu Đạo."

於ư 是thị 世Thế 尊Tôn 重trùng 說thuyết 偈kệ 言ngôn
Lúc bấy giờ Thế Tôn lại nói kệ rằng:

命mạng 欲dục 日nhật 夜dạ 盡tận
及cập 時thời 可khả 勤cần 力lực

世thế 間gian 諦đế 非phi 常thường

莫mạc 惑hoặc 墮đọa 冥minh 中trung


"Mạng sống ngày đêm giảm
Hãy mau gắng nỗ lực
Thế gian là vô thường
Chớ mê, đọa tối tăm

當đương 學học 然nhiên 意ý 燈đăng
自tự 練luyện 求cầu 智trí 慧tuệ

離ly 垢cấu 勿vật 染nhiễm 污ô

執chấp 燭chúc 觀quan 道đạo 地địa


Hãy thắp ngọn đèn tâm
Tu học cầu trí tuệ
Lìa cấu chớ nhiễm ô
Cầm đuốc soi đường đi"

佛Phật 說thuyết 是thị 時thời 放phóng 大đại 光quang 明minh 照chiếu 曜diệu 天thiên 地địa 五ngũ 百bách 年niên 少thiếu 梵Phạm 志Chí 因nhân 此thử 心tâm 解giải 衣y 毛mao 為vi 竪thụ
Khi nói lời ấy xong, Đức Phật phóng đại quang minh và chiếu sáng rực rỡ đất trời. Bấy giờ khắp lông trên thân của 500 Phạm Chí trẻ tuổi đều dựng đứng và nhân đó tâm ý được khai mở.

起khởi 禮lễ 佛Phật 足túc 白bạch 佛Phật 言ngôn
Họ đồng thời đứng dậy và đảnh lễ với trán chạm sát chân của Phật, rồi thưa với Phật rằng:

歸quy 命mạng 世Thế 尊Tôn 願nguyện 為vi 弟đệ 子tử
"Chúng con xin Quy Y Phật và xin làm đệ tử của Thế Tôn."

佛Phật 言ngôn
Đức Phật bảo:

善thiện 來lai 比Bỉ 丘Khâu
"Thiện lai, Bhikṣu!"

即tức 成thành 沙Sa 門Môn 得đắc 羅La 漢Hán 道Đạo 村thôn 人nhân 大đại 小tiểu 皆giai 得đắc 道Đạo 迹tích 莫mạc 不bất 歡hoan 欣hân
Lập tức, họ liền trở thành Đạo Nhân và đắc Đạo Ưng Chân. Bấy giờ, tất cả người lớn kẻ nhỏ ở trong thôn đều thấy dấu Đạo và không ai là chẳng hoan hỷ.

愛Ái 身Thân 品Phẩm 第đệ 二nhị 十thập
Phẩm 20: Ái Thân


昔tích 有hữu 一nhất 國quốc 名danh 多Đa 摩Ma 羅La 去khứ 城thành 七thất 里lý 有hữu 精tinh 舍xá 五ngũ 百bách 沙Sa 門Môn 常thường 處xứ 其kỳ 中trung 讀độc 經Kinh 行hành 道Đạo
Thuở xưa có một quốc gia tên là Tāmra [tam ra]. Cách kinh đô khoảng bảy dặm, nơi đây có một tinh xá và hiện có 500 Đạo Nhân thường cư trú nơi ấy để giảng Kinh tu Đạo.

有hữu 一nhất 長trưởng 老lão 比Bỉ 丘Khâu 名danh 摩Ma 訶Ha 盧Lô 為vi 人nhân 闇ám 塞tắc 五ngũ 百bách 道Đạo 人Nhân 傳truyền 共cộng 教giáo 之chi 數sổ 年niên 之chi 中trung 不bất 得đắc 一nhất 偈kệ 眾chúng 共cộng 輕khinh 之chi 不bất 將tương 會hội 同đồng 常thường 守thủ 精tinh 舍xá 勅sắc 令lệnh 掃tảo 除trừ 後hậu 日nhật 國quốc 王vương 請thỉnh 諸chư 道Đạo 人Nhân 入nhập 宮cung 供cúng 養dường
Đương thời ở trong tinh xá ấy có một vị Bhikṣu lớn tuổi với tâm tánh ám độn, tên là Vô Tri. Tuy 500 vị Đạo Nhân đã thay phiên dạy bảo ròng rã suốt vài năm mà ông ta vẫn không học thuộc một bài kệ. Ông bị mọi người khinh chê và xa lánh, phải luôn ở lại tinh xá để canh giữ và sai quét dọn tự viện. Về sau có một ngày, vị vua của nước này thỉnh chư Tăng vào cung để cúng dường.

摩Ma 訶Ha 盧Lô 比Bỉ 丘Khâu 自tự 念niệm 言ngôn
Bấy giờ Bhikṣu Vô Tri tự nghĩ rằng:

我ngã 生sanh 世thế 間gian 闇ám 塞tắc 如như 此thử 不bất 知tri 一nhất 偈kệ 人nhân 所sở 薄bạc 賤tiện 用dụng 是thị 活hoạt 為vi
"Ta sanh ra trên đời mà sao lại ngu dốt như thế! Ngay cả một bài kệ cũng không biết, luôn bị mọi người chê bai. Vậy ta sống để làm gì?"

即tức 持trì 繩thằng 至chí 後hậu 園viên 中trung 大đại 樹thụ 下hạ 欲dục 自tự 絞giảo 死tử 佛Phật 以dĩ 道Đạo 眼nhãn 遙diêu 見kiến 如như 是thị 化hóa 作tác 樹thụ 神thần 半bán 身thân 人nhân 現hiện
Ngài liền cầm sợi dây, rồi đi đến dưới một gốc cây to ở hậu viên và định muốn treo cổ tự tử. Với Đạo nhãn, Đức Phật thấy mọi việc từ xa. Ngài liền hóa làm một vị thần cây và chỉ hiện ra nửa thân người.

而nhi 呵ha 之chi 曰viết
Hóa thần quở trách rằng:

咄đốt 咄đốt 比Bỉ 丘Khâu 何hà 為vi 作tác 此thử
"Ôi không, Bhikṣu! Tại sao phải làm vậy?"

摩Ma 訶Ha 盧Lô 即tức 具cụ 陳trần 辛tân 苦khổ
Ngài Vô Tri liền kể rõ những việc cay đắng trong lòng.

化hóa 神thần 呵ha 曰viết
Hóa thần quở trách rằng:

勿vật 得đắc 作tác 是thị 且thả 聽thính 我ngã 言ngôn 往vãng 迦Ca 葉Diếp 佛Phật 時thời 卿khanh 作tác 三tam 藏tạng 沙Sa 門Môn 有hữu 五ngũ 百bách 弟đệ 子tử 自tự 以dĩ 多đa 智trí 輕khinh 慢mạn 眾chúng 人nhân 悋lận 惜tích 經Kinh 義nghĩa 初sơ 不bất 訓huấn 誨hối 是thị 以dĩ 世thế 世thế 所sở 生sanh 諸chư 根căn 闇ám 鈍độn 但đãn 當đương 自tự 責trách 何hà 為vi 自tự 賊tặc
"Chớ làm như thế! Hãy nghe ta nói. Vào thời giáo hóa của Đức Phật Ẩm Quang thuở xưa, thầy làm một vị Đạo Nhân, tinh thông ba tạng Kinh điển và có 500 đệ tử. Do tự cho mình tài giỏi nên thầy khinh thường mọi người, keo tiếc Kinh nghĩa và không hề giảng dạy. Bởi vậy mà đời đời ở mọi nơi sanh ra, các căn luôn ám độn. Thầy chỉ nên tự trách mình! Sao phải nghĩ đến việc tự sát chứ?"

於ư 是thị 世Thế 尊Tôn 現hiện 神thần 光quang 像tượng 即tức 說thuyết 偈kệ 言ngôn
Bấy giờ Thế Tôn hiện tướng uy thần sáng chói và liền nói kệ rằng:

自tự 愛ái 身thân 者giả
慎thận 護hộ 所sở 守thủ

希hy 望vọng 欲dục 解giải

學học 正chánh 不bất 寐mị


"Nếu ai quý thân mình
Thận trọng mà bảo hộ
Như muốn trừ ái dục
Học Pháp chớ ngủ say

身thân 為vi 第đệ 一nhất
常thường 自tự 勉miễn 學học

利lợi 能năng 誨hối 人nhân

不bất 倦quyện 則tắc 智trí


Thân là trân quý nhất
Tự mình luôn gắng học
Thông đạt rồi dạy người
Kiên định trí tuệ sanh

學học 先tiên 自tự 正chánh
然nhiên 後hậu 正chánh 人nhân

調điều 身thân 入nhập 慧tuệ

必tất 遷thiên 為vi 上thượng


Trước hãy tự chân chánh
Rồi sau dạy người khác
Nếu ai tự chân chánh
Mới gọi là thượng nhân

身thân 不bất 能năng 利lợi
安an 能năng 利lợi 人nhân

心tâm 調điều 體thể 正chánh

何hà 願nguyện 不bất 至chí


Nếu mình chưa an vui
Làm sao lợi kẻ khác?
Thân tâm đã điều phục
Nguyện gì mà chẳng thành?

本bổn 我ngã 所sở 造tạo
後hậu 我ngã 自tự 受thọ

為vi 惡ác 自tự 更canh

如như 剛cang 鑽toàn 珠châu


Việc này xưa ta tạo
Về sau ta tự thọ
Làm ác tự chuốc lấy
Như kim cang xuyên báu"

摩Ma 訶Ha 盧Lô 比Bỉ 丘Khâu 見kiến 佛Phật 現hiện 身thân 光quang 像tượng 悲bi 喜hỷ 悚tủng 慄lật 稽khể 首thủ 佛Phật 足túc 思tư 惟duy 偈kệ 義nghĩa 即tức 入nhập 定định 意ý 尋tầm 在tại 佛Phật 前tiền 逮đãi 得đắc 羅La 漢Hán 道Đạo 自tự 識thức 宿túc 命mạng 無vô 數số 世thế 事sự 三tam 藏tạng 眾chúng 經Kinh 即tức 貫quán 在tại 心tâm
Khi thấy uy thần sáng chói của Phật, ngài Vô Tri vừa mừng vừa run sợ, rồi cúi đầu đảnh lễ với trán chạm sát chân của Phật. Sau đó ngài tư duy nghĩa lý của bài kệ, tâm liền nhập định, và đắc Đạo Ưng Chân ngay ở trước Phật. Ngài tự biết vô số việc ở đời trước, và tâm liền thông suốt ba tạng Kinh điển.

佛Phật 語ngứ 摩Ma 訶Ha 盧Lô
Phật bảo ngài Vô Tri:

著trước 衣y 持trì 鉢bát 就tựu 王vương 宮cung 食thực 在tại 五ngũ 百bách 道Đạo 人Nhân 上thượng 坐tọa 此thử 諸chư 道Đạo 人Nhân 是thị 卿khanh 先tiên 世thế 五ngũ 百bách 弟đệ 子tử 還hoàn 為vi 說thuyết 法Pháp 令linh 得đắc 道Đạo 迹tích 并tinh 使sử 國quốc 王vương 明minh 信tín 罪tội 福phước
"Ông hãy đắp y và cầm bát vào cung vua thọ thực. Sau đó trên Pháp tòa ở nơi của 500 vị Bhikṣu mà thuyết Pháp để khiến họ thấy dấu Đạo. Các vị Bhikṣu đó vốn là 500 đệ tử của ông ở đời trước. Nhân đó cũng làm cho quốc vương tin hiểu tội phước."

即tức 受thọ 佛Phật 教giáo 徑kính 入nhập 宮cung 裏lý 坐tọa 於ư 上thượng 座tòa 眾chúng 人nhân 心tâm 恚khuể 怪quái 其kỳ 所sở 以dĩ 各các 護hộ 王vương 意ý 不bất 敢cảm 呵ha 譴khiển 念niệm 其kỳ 愚ngu 冥minh 不bất 曉hiểu 達đạt 嚫sấn 心tâm 為vi 之chi 疲bì
Tôn giả Vô Tri liền vâng lời Phật dạy, thẳng bước vào cung vua, và ngồi trên Pháp tòa. Bấy giờ đại chúng nổi sân và hết sức kinh ngạc. Vì giữ thể diện cho nhà vua nên họ không dám trách mắng. Họ niệm tình ông ta là kẻ ngu muội, không hiểu phương thức cúng thí, và trong lòng buồn bã.

王vương 便tiện 下hạ 食thực 手thủ 自tự 斟châm 酌chước 摩Ma 訶Ha 盧Lô 即tức 為vi 達đạt 嚫sấn 音âm 如như 雷lôi 震chấn 清thanh 辭từ 雨vũ 下hạ 坐tọa 上thượng 道Đạo 人Nhân 驚kinh 怖bố 自tự 悔hối 皆giai 得đắc 羅La 漢Hán 為vì 王vương 說thuyết 法Pháp 莫mạc 不bất 解giải 釋thích 群quần 臣thần 百bách 官quan 皆giai 得đắc 須Tu 陀Đà 洹Hoàn 道Đạo
Bấy giờ nhà vua tự tay lấy thức ăn cho chư Tăng. Sau đó Tôn giả Vô Tri liền thuyết Pháp, âm thanh như sấm rền, lời nói thanh nhã như mưa rơi xuống. Các vị Bhikṣu kinh hãi, tự cảm thấy hối hận, và đều đắc Đạo Ưng Chân. Lời thuyết Pháp của Tôn giả Vô Tri khiến cho nhà vua thâm nhập nghĩa lý. Quần thần và bách quan đều đắc Quả Dự Lưu.




昔tích 佛Phật 在tại 舍Xá 衛Vệ 國Quốc 有hữu 五ngũ 百bách 婆Bà 羅La 門Môn 常thường 求cầu 佛Phật 便tiện 欲dục 誹phỉ 謗báng 之chi 佛Phật 三Tam 達Đạt 之chi 智trí 普phổ 見kiến 人nhân 心tâm 愍mẫn 欲dục 度độ 之chi 其kỳ 果quả 未vị 熟thục 因nhân 緣duyên 未vị 到đáo 一nhất 切thiết 罪tội 福phước 欲dục 來lai 至chí 時thời 自tự 作tác 因nhân 緣duyên 而nhi 迎nghênh 罪tội 福phước 此thử 諸chư 梵Phạm 志Chí 宿túc 有hữu 微vi 福phước 應ưng 當đương 得đắc 度độ 福phước 德đức 牽khiên 之chi 自tự 作tác 方phương 宜nghi
Vào thời Đức Phật giáo hóa chúng sanh ở thành Phong Đức, bấy giờ có 500 Phạm Chí luôn tìm cơ hội để phỉ báng Phật. Với trí tuệ của Ba Minh, Đức Phật thấy biết khắp tâm tưởng của chúng sanh, và luôn thương xót muốn độ họ. Nhưng do trái chưa chín mùi và nhân duyên chưa đến, nên Phật vẫn chưa có thể hóa độ. Tất cả tội phước một khi đến thời điểm, hễ ai tạo nhân duyên gì thì sẽ thọ tội hoặc hưởng phước từ quả báo đó. Bởi ở đời trước các Phạm Chí này đã gieo một chút duyên lành nên họ sẽ được hóa độ. Do năng lực của phước đức dẫn dắt nên tự nhiên sẽ có sự an bài.

五ngũ 百bách 梵Phạm 志Chí 自tự 共cộng 議nghị 言ngôn
Có một hôm, 500 Phạm chí mưu tính với nhau rằng:

當đương 使sử 屠đồ 兒nhi 殺sát 生sanh 請thỉnh 佛Phật 及cập 諸chư 眾chúng 僧Tăng 佛Phật 必tất 受thọ 請thỉnh 讚tán 歎thán 屠đồ 兒nhi 吾ngô 等đẳng 便tiện 前tiền 而nhi 共cộng 譏cơ 之chi
"Chúng ta hãy bảo một kẻ làm nghề mổ giết đến thỉnh Phật cùng chư Tăng để cúng dường. Phật tất sẽ nhận lời và ngợi khen công đức của kẻ kia. Thừa cơ hội ấy, chúng ta sẽ cùng nhau phỉ báng ở trước mặt Phật."

於ư 是thị 屠đồ 兒nhi 為vi 之chi 請thỉnh 佛Phật
Sau đó có một người làm nghề mổ giết thỉnh Phật đến nhà để cúng dường.

佛Phật 即tức 受thọ 請thỉnh 告cáo 屠đồ 兒nhi 言ngôn
Phật liền nhận lời và bảo rằng:

果quả 熟thục 自tự 墮đọa 福phước 熟thục 自tự 度độ
"Khi trái chín thì sẽ tự rụng. Khi phước báo thành thục thì sẽ tự độ."

屠đồ 兒nhi 還hoàn 歸quy 供cung 設thiết 飯phạn 食thực 佛Phật 將tương 諸chư 弟đệ 子tử 到đáo 屠đồ 兒nhi 村thôn 中trung
Kẻ làm nghề mổ giết trở về nhà và chuẩn bị thức ăn chay để cúng dường. Bấy giờ Phật dẫn các đệ tử đến trong thôn của kẻ làm nghề mổ giết.

至chí 檀đàn 越việt 舍xá 梵Phạm 志Chí 大đại 小tiểu 皆giai 共cộng 歡hoan 喜hỷ
Khi Phật đến nhà của gia chủ, các Phạm Chí lớn nhỏ thảy đều mừng rỡ và nói với nhau rằng:

今kim 日nhật 乃nãi 得đắc 佛Phật 之chi 便tiện 耳nhĩ 若nhược 當đương 讚tán 檀đàn 越việt 福phước 德đức 者giả 當đương 以dĩ 其kỳ 前tiền 後hậu 殺sát 生sanh 作tác 罪tội 持trì 用dụng 譏cơ 之chi 佛Phật 若nhược 當đương 說thuyết 其kỳ 由do 來lai 之chi 罪tội 者giả 當đương 以dĩ 今kim 日nhật 之chi 福phước 難nạn 之chi 二nhị 宜nghi 之chi 中trung 今kim 日nhật 乃nãi 得đắc 佛Phật 便tiện 耳nhĩ
"Mãi đến hôm nay chúng ta mới có cơ hội để hủy báng Phật! Nếu Phật ngợi khen phước đức của gia chủ, chúng ta sẽ nói nghiệp tội trước và sau của kẻ làm nghề mổ giết để hủy báng Phật. Nếu Phật nói nghiệp tội của kẻ làm nghề mổ giết, chúng ta sẽ nói hôm nay hắn sẽ có phước hay họa. Với hai cách này mà tùy cơ ứng biến. Mãi đến hôm nay chúng ta mới có cơ hội để hủy báng Phật!"

佛Phật 到đáo 即tức 坐tọa 行hành 水thủy 下hạ 食thực 於ư 是thị 世Thế 尊Tôn 觀quán 察sát 眾chúng 心tâm 應ưng 有hữu 度độ 者giả 即tức 出xuất 舌thiệt 覆phú 面diện 舐thỉ 耳nhĩ 放phóng 大đại 光quang 明minh 照chiếu 一nhất 城thành 內nội
Bấy giờ Đức Phật đến nhà của gia chủ, rồi ngồi xuống, lấy nước rửa tay và thọ trai. Tiếp đến Thế Tôn quán sát trong lòng của đại chúng và biết có người đáng được hóa độ. Khi ấy Đức Phật liền hiện ra tướng lưỡi, phủ cả mặt và tai, rồi phóng đại quang minh chiếu sáng khắp toàn thành.

即tức 以dĩ 梵Phạn 聲thanh 說thuyết 偈kệ 咒chú 願nguyện
Đức Phật liền dùng tiếng Phạn âm và nói bài kệ chú nguyện rằng:

如như 真Chân 人Nhân 教giáo
以dĩ 道Đạo 活hoạt 身thân

愚ngu 者giả 嫉tật 之chi

見kiến 而nhi 為vi 惡ác

行hành 惡ác 得đắc 惡ác

如như 種chúng 苦khổ 種chủng


"Theo lời dạy thánh nhân
Dùng Đạo làm lẽ sống
Kẻ ngu sanh ganh ghét
Khi thấy sanh lòng ác
Gây ác chịu ác báo
Ví như gieo nhân khổ

惡ác 自tự 受thọ 罪tội
善thiện 自tự 受thọ 福phước

亦diệc 各các 須tu 熟thục

彼bỉ 不bất 相tương 代đại

習tập 善thiện 得đắc 善thiện

亦diệc 如như 種chúng 甜điềm


Làm ác tự thọ tội
Làm lành tự thọ phước
Khi nghiệp đã chín mùi
Nó sẽ chẳng đổi thay
Tu thiện sẽ được thiện
Cũng như trồng trái ngọt"

佛Phật 說thuyết 偈kệ 已dĩ 五ngũ 百bách 梵Phạm 志Chí 意ý 自tự 開khai 解giải
Khi Phật nói kệ xong, tâm ý của 500 Phạm Chí tự nhiên mở thông.

即tức 前tiền 禮lễ 佛Phật 五ngũ 體thể 投đầu 地địa 叉xoa 手thủ 白bạch 佛Phật 言ngôn
Họ liền cúi đầu đảnh lễ với năm điểm chạm đất ở trước Phật, rồi chắp tay và thưa với Phật rằng:

頑ngoan 愚ngu 不bất 及cập 未vị 達đạt 聖thánh 訓huấn 唯duy 願nguyện 愍mẫn 育dục 得đắc 為vi 沙Sa 門Môn
"[Thưa Thế Tôn!] Chúng con quả thật ngu si ngoan cố, bấy lâu nay không hiểu rõ lời dạy của Phật. Xin Thế Tôn thương xót và cho phép chúng con làm Đạo Nhân."

佛Phật 即tức 聽thính 受thọ 皆giai 為vi 沙Sa 門Môn 村thôn 人nhân 大đại 小tiểu 見kiến 佛Phật 變biến 化hóa 莫mạc 不bất 歡hoan 欣hân 皆giai 得đắc 道Đạo 迹tích 稱xưng 之chi 賢hiền 聖thánh 無vô 復phục 屠đồ 兒nhi 之chi 名danh 佛Phật 食thực 畢tất 訖ngật 即tức 還hoàn 精tinh 舍xá
Phật liền thu nhận và họ đều trở thành Đạo Nhân. Khi thấy sự biến hóa của Phật, tất cả kẻ lớn người nhỏ ở trong thôn, không ai là chẳng hoan hỷ. Họ đều thấy dấu Đạo, được xưng là thánh hiền và không còn gọi là những kẻ làm nghề mổ giết nữa. Khi thọ trai xong, Phật liền trở về tinh xá.

世Thế 俗Tục 品Phẩm 第đệ 二nhị 十thập 一nhất
Phẩm 21: Thế Tục


昔tích 有hữu 婆Bà 羅La 門Môn 國quốc 王vương 名danh 多Đa 味Vị 寫Tả 其kỳ 王vương 奉phụng 事sự 異dị 道đạo 九cửu 十thập 六lục 種chủng 王vương 忽hốt 一nhất 日nhật 發phát 於ư 善thiện 心tâm 欲dục 大đại 布bố 施thí 如như 婆Bà 羅La 門Môn 法pháp 積tích 七thất 寶bảo 如như 山sơn 持trì 用dụng 布bố 施thí 有hữu 來lai 乞khất 者giả 聽thính 令lệnh 自tự 取thủ 重trọng 一nhất 撮toát 去khứ 如như 是thị 數sổ 日nhật 其kỳ 積tích 不bất 減giảm
Thuở xưa có một Phạm Chí quốc vương, tên là Đa-vị-tả. Ông vua này phụng sự 96 nhóm đạo thuật khác nhau. Một ngày nọ, ngài bỗng nhiên phát khởi tâm lành và muốn làm bố thí rộng lớn. Như pháp của Phạm Chí, ngài lấy bảy báu chất thành một đống cao như núi để bố thí. Hễ ai đến xin, ngài bảo hãy lấy một nhúm đầy rồi mang đi. Trải qua nhiều ngày như thế mà đống châu báu vẫn không giảm sút.

佛Phật 知tri 是thị 王vương 宿túc 福phước 應ưng 度độ 化hóa 作tác 梵Phạm 志Chí 往vãng 到đáo 其kỳ 國quốc 王vương 出xuất 相tương 見kiến
Đức Phật biết phước đức của vị vua này ở đời trước và đáng được hóa độ, nên Thế Tôn hóa làm một Phạm Chí rồi đi đến nước đó. Khi ấy nhà vua bước ra và trông thấy Phạm Chí.

共cộng 相tương 禮lễ 問vấn 起khởi 居cư 曰viết
Họ cùng thăm hỏi lẫn nhau, rồi nhà vua hỏi rằng:

何hà 所sở 求cầu 索sách 莫mạc 自tự 疑nghi 難nan
"Ngài đến đây muốn cầu chi? Hãy cứ nói ra, xin đừng ngần ngại!"

梵Phạm 志Chí 答đáp 言ngôn
Phạm Chí đáp rằng:

吾ngô 從tùng 遠viễn 來lai 欲dục 乞khất 珍trân 寶bảo 持trì 作tác 舍xá 宅trạch
"Tôi từ xa đến đây muốn xin trân bảo để mang về xây một căn nhà."

王vương 言ngôn
Nhà vua nói rằng:

大đại 善thiện 自tự 取thủ 重trọng 一nhất 撮toát 去khứ
"Tốt lắm! Vậy hãy tự lấy một nhúm đầy mang đi."

梵Phạm 志Chí 取thủ 一nhất 撮toát 行hành 七thất 步bộ 還hoàn 著trước 故cố 處xứ
Phạm Chí lấy một nhúm châu báu, rồi đi bảy bước và trở về đặt chúng ở chỗ cũ.

王vương 問vấn
Nhà vua hỏi rằng:

何hà 故cố 不bất 取thủ
"Sao không lấy?"

梵Phạm 志Chí 答đáp 曰viết
Phạm Chí đáp rằng:

此thử 纔tài 足túc 作tác 舍xá 廬lư 耳nhĩ 復phục 當đương 娶thú 婦phụ 俱câu 不bất 足túc 用dụng 是thị 以dĩ 不bất 取thủ
"Tài vật này chỉ đủ xây một túp lều tranh. Tôi lại phải lấy vợ nên quyết sẽ không đủ. Bởi vậy tôi chẳng lấy."

王vương 言ngôn
Nhà vua nói rằng:

更cánh 取thủ 三tam 撮toát
"Vậy hãy lấy ba nhúm!"

梵Phạm 志Chí 即tức 取thủ 行hành 七thất 步bộ 復phục 還hoàn 著trước 故cố 處xứ
Phạm Chí liền lấy ba nhúm châu báu, rồi đi bảy bước và trở về đặt chúng ở chỗ cũ.

王vương 問vấn 梵Phạm 志Chí
Nhà vua hỏi Phạm Chí:

何hà 以dĩ 復phục 爾nhĩ
"Sao lại không lấy?"

答đáp 曰viết
Đáp rằng:

此thử 足túc 娶thú 婦phụ 復phục 無vô 田điền 地địa 奴nô 婢tỳ 牛ngưu 馬mã 計kế 復phục 不bất 足túc 是thị 以dĩ 息tức 意ý 也dã
"Tài vật này chỉ đủ lấy vợ. Tôi lại không có ruộng vườn, nô tỳ và trâu ngựa, nên với tài vật này thì không đủ. Bởi vậy tôi chẳng lấy."

王vương 言ngôn
Nhà vua nói rằng:

更cánh 取thủ 七thất 撮toát
"Vậy hãy lấy bảy nhúm!"

梵Phạm 志Chí 即tức 取thủ 行hành 七thất 步bộ 復phục 還hoàn 著trước 故cố 處xứ
Phạm Chí liền lấy bảy nhúm châu báu, rồi đi bảy bước và trở về đặt chúng ở chỗ cũ.

王vương 言ngôn
Nhà vua nói rằng:

復phục 何hà 意ý 故cố
"Như vậy nghĩa là sao?"

梵Phạm 志Chí 答đáp 言ngôn
Phạm Chí đáp rằng:

若nhược 有hữu 男nam 女nữ 當đương 復phục 嫁giá 娶thú 吉cát 凶hung 用dụng 費phí 計kế 不bất 足túc 用dụng 是thị 以dĩ 不bất 取thủ
"Nếu có con cái thì lại phải dựng vợ gả chồng. Huống nữa sẽ còn gặp việc cát hung. Tôi tính sẽ không đủ. Bởi vậy tôi chẳng lấy."

王vương 言ngôn
Nhà vua nói rằng:

盡tận 以dĩ 積tích 寶bảo 持trì 用dụng 相tương 上thượng
"Nếu thế thì hãy lấy toàn bộ số châu báu này đi!"

梵Phạm 志Chí 受thọ 而nhi 捨xả 去khứ 王vương 甚thậm 怪quái 之chi 重trùng 問vấn 意ý 故cố
Phạm Chí tiếp nhận nhưng rồi trả lại và bỏ đi. Nhà vua hết sức ngạc nhiên và lại hỏi nguyên nhân.

梵Phạm 志Chí 答đáp 曰viết
Phạm Chí đáp rằng:

本bổn 來lai 乞khất 丐cái 欲dục 用dụng 生sanh 活hoạt 諦đế 念niệm 人nhân 命mạng 處xử 世thế 無vô 幾kỷ 萬vạn 物vật 無vô 常thường 旦đán 夕tịch 難nan 保bảo 因nhân 緣duyên 遂toại 重trọng 憂ưu 苦khổ 日nhật 深thâm 積tích 寶bảo 如như 山sơn 無vô 益ích 於ư 己kỷ 貪tham 欲dục 規quy 圖đồ 唐đường 自tự 艱gian 苦khổ 不bất 如như 息tức 意ý 求cầu 無vô 為vi 道Đạo 是thị 以dĩ 不bất 取thủ
"Tôi xưa nay đi xin ăn để sinh sống, suy gẫm thọ mạng con người sống trên đời chẳng bao lâu, vạn vật vô thường và sớm tối khó bảo hộ. Nhân duyên càng nhiều thì sầu khổ ngày càng tăng. Dù tích trữ châu báu cao như núi thì cũng chẳng có lợi ích gì cho bản thân. Mưu toan về tham dục thì chỉ tự nhọc nhằn chuốt khổ. Đâu bằng như ý dừng nghỉ và cầu Đạo vô vi. Bởi vậy tôi chẳng lấy."

王vương 意ý 開khai 解giải 願nguyện 奉phụng 明minh 教giáo
Lúc ấy nhà vua được tâm khai ý giải và xin phụng trì chánh giáo.

於ư 是thị 梵Phạm 志Chí 現hiện 佛Phật 光quang 相tướng 踊dũng 住trụ 空không 中trung 為vi 說thuyết 偈kệ 言ngôn
Bấy giờ Phạm Chí hiện ra uy tướng quang minh của Phật, bay lên và đứng giữa hư không rồi nói kệ rằng:

雖tuy 得đắc 積tích 珍trân 寶bảo
崇sùng 高cao 至chí 於ư 天thiên

如như 是thị 滿mãn 世thế 間gian

不bất 如như 見kiến 道Đạo 迹tích


"Dù trữ nhiều trân bảo
Cao tột đến cõi trời
Như thế khắp thế gian
Đâu bằng thấy dấu Đạo

不bất 善thiện 像tượng 如như 善thiện
愛ái 如như 似tự 不bất 愛ái

以dĩ 苦khổ 為vi 樂lạc 相tướng

狂cuồng 夫phu 為vị 所sở 厭yếm


Ác xem như điều thiện
Ái xem như chẳng ái
Lấy khổ cho là vui
Cuồng phu bị chôn vùi"

於ư 是thị 國quốc 王vương 見kiến 佛Phật 光quang 相tướng 遍biến 照chiếu 天thiên 地địa 又hựu 聞văn 此thử 偈kệ 踊dũng 躍dược 歡hoan 喜hỷ 王vương 及cập 群quần 臣thần 即tức 受thọ 五Ngũ 戒Giới 得đắc 須Tu 陀Đà 洹Hoàn 道Đạo
Khi thấy uy tướng quang minh của Phật chiếu khắp đất trời và lại nghe được những bài kệ này, nhà vua vui mừng hớn hở. Nhà vua cùng quần thần liền xin thọ Năm Giới và đều đắc Quả Dự Lưu.

述Thuật 佛Phật 品Phẩm 第đệ 二nhị 十thập 二nhị
Phẩm 22: Đức Phật


昔tích 佛Phật 在tại 摩Ma 竭Kiệt 提Đề 界giới 善Thiện 勝Thắng 道Đạo 場Tràng 元nguyên 吉cát 樹thụ 下hạ 德đức 力lực 降hàng 魔ma
Thuở xưa lúc Phật ngồi dưới cội Đạo thụ ở Đạo Tràng trong nước Thiện Thắng, rồi dùng Đạo lực để hàng phục chúng ma.

坐tọa 自tự 惟duy 曰viết
Ngồi ở trên Pháp tòa, Ngài tư duy như vầy:

甘cam 露lộ 法Pháp 鼓cổ 聞văn 於ư 三Tam 千Thiên 昔tích 父phụ 王vương 遣khiển 五ngũ 人nhân 供cúng 養dường 麻ma 米mễ 執chấp 侍thị 有hữu 勞lao 功công 報báo 應ưng 敘tự 此thử 五ngũ 人nhân 者giả 在tại 波Ba 羅La 奈Nại 國Quốc
"Nay Pháp cổ cam lộ đã vang khắp Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới. Xưa kia phụ vương đã sai năm người đến trông lo cơm nước. Năm người họ hầu cận có công lao và đáng được báo đáp. Hiện giờ năm người họ đang ở thành Lộc Dã."

於ư 是thị 如Như 來Lai 從tùng 樹thụ 下hạ 起khởi 相tướng 好hảo 嚴nghiêm 儀nghi 明minh 暉huy 天thiên 地địa 威uy 神thần 震chấn 動động 見kiến 者giả 喜hỷ 悅duyệt 至chí 波Ba 羅La 奈Nại 國Quốc 未vị 至chí 中trung 道đạo 逢phùng 一nhất 梵Phạm 志Chí 名danh 曰viết 憂Ưu 呼Hô 辭từ 親thân 離ly 家gia 求cầu 師sư 學học 道Đạo
Bấy giờ Như Lai đứng dậy từ dưới gốc cây, tướng hảo uy nghiêm chiếu sáng khắp đất trời. Uy thần chấn động khiến ai thấy cũng hân hoan. Trên đường đi đến thành Lộc Dã, ở giữa đường Ngài gặp một Phạm Chí tên là Lai Sự. Người này đã từ giã người thân để đi xuất gia và cầu sư học Đạo.

瞻chiêm 覩đổ 尊Tôn 妙diệu 驚kinh 喜hỷ 交giao 集tập 下hạ 在tại 道đạo 側trắc 舉cử 聲thanh 歎thán 曰viết
Khi nhìn thấy diệu tướng của Thế Tôn, ông vừa mừng vừa sợ, rồi dừng lại ở bên đường và cao thanh tán thán rằng:

威uy 靈linh 感cảm 人nhân 儀nghi 雅nhã 挺đĩnh 特đặc 本bổn 事sự 何hà 師sư 乃nãi 得đắc 斯tư 容dung
"Uy thần và dáng vẻ trang nghiêm của ngài thật siêu việt khác thường. Xin hỏi ngài theo học vị thầy nào mà được uy dung như thế?"

佛Phật 為vì 憂Ưu 呼Hô 而nhi 作tác 頌tụng 曰viết
Phật vì Phạm Chí mà nói kệ rằng:

八Bát 正Chánh 覺Giác 自tự 得đắc
無vô 離ly 無vô 所sở 染nhiễm

愛ái 盡tận 破phá 欲dục 網võng

自tự 然nhiên 無vô 師sư 受thọ


"Tự chứng Tám Chánh Đạo
Lìa dục chẳng còn nhiễm
Ái tận phá lưới dục
Tự nhiên không thầy dạy

我ngã 行hành 無vô 師sư 保bảo
志chí 獨độc 無vô 伴bạn 侶lữ

積tích 一nhất 得đắc 作tác 佛Phật

從tùng 是thị 通thông 聖thánh 道Đạo


Tự ngộ không thầy dạy
Một mình không bạn lữ
Nhất tâm tu Chánh Pháp
Phật Đạo tự nhiên thông"

憂Ưu 呼Hô 聞văn 偈kệ 悵trướng 惘võng 不bất 解giải
Khi nghe kệ xong, Phạm Chí chẳng hiểu diệu lý và rất thất vọng.

即tức 問vấn 世Thế 尊Tôn
Phạm Chí liền hỏi Thế Tôn rằng:

瞿Cù 曇Đàm 如như 行hành
"Nay Đạo sư Năng Nhân muốn đi đâu?"

佛Phật 告cáo 梵Phạm 志Chí
Phật bảo Phạm Chí rằng:

欲dục 詣nghệ 波Ba 羅La 奈Nại 國Quốc 擊kích 甘cam 露lộ 法Pháp 鼓cổ 轉chuyển 無vô 上thượng 法Pháp 輪luân 三tam 界giới 眾chúng 聖thánh 未vị 曾tằng 有hữu 轉chuyển 法Pháp 輪luân 遷thiên 人nhân 入nhập 泥Nê 洹Hoàn 如như 我ngã 今kim 者giả 也dã
"Ta muốn đến thành Lộc Dã để đánh trống Pháp cam lộ và chuyển Pháp luân vô thượng mà chư thánh khắp ba cõi chưa từng chuyển được. Sự lăn chuyển bánh xe Chánh Pháp này sẽ khiến cho trời người vào tịch diệt như Ta hôm nay vậy."

憂Ưu 呼Hô 大đại 喜hỷ
Phạm Chí rất vui mừng mà nói rằng:

善thiện 哉tai 善thiện 哉tai 如như 佛Phật 言ngôn 者giả 願nguyện 聞văn 甘cam 露lộ 如như 應ứng 說thuyết 法Pháp
"Tốt thay, tốt thay! Nếu đúng như lời Phật nói, tôi nguyện mai này sẽ nghe được Pháp cam lộ thuyết giảng của ngài."

梵Phạm 志Chí 揖ấp 已dĩ 即tức 便tiện 過quá 去khứ 未vị 到đáo 師sư 所sở 於ư 道đạo 路lộ 宿túc 至chí 其kỳ 夜dạ 半bán 卒thốt 便tiện 命mạng 終chung 佛Phật 以dĩ 道Đạo 眼nhãn 見kiến 其kỳ 已dĩ 終chung
Phạm Chí vái chào rồi liền bỏ đi. Trong lúc còn chưa đến chỗ của thầy mình, ở giữa đường Phạm Chí nghỉ qua đêm. Đến nửa đêm ấy, Phạm Chí hốt nhiên mạng chung. Với Đạo nhãn, Đức Phật thấy Phạm Chí đã lìa đời.

愍mẫn 傷thương 之chi 曰viết
Ngài xót thương mà than rằng:

世thế 間gian 愚ngu 癡si 謂vị 命mạng 有hữu 常thường 見kiến 佛Phật 捨xả 去khứ 而nhi 獨độc 喪táng 亡vong 法Pháp 鼓cổ 震chấn 動động 而nhi 獨độc 不bất 聞văn 甘cam 露lộ 滅diệt 苦khổ 而nhi 獨độc 不bất 嘗thường 展triển 轉chuyển 五ngũ 道đạo 生sanh 死tử 彌di 長trường 經kinh 歷lịch 劫kiếp 數số 何hà 時thời 得đắc 度độ
"Người ở thế gian thật si mê mà cho thọ mạng là thường hằng. Dù thấy Phật nhưng lại bỏ đi và một mình chịu khổ ra đi. Trống Pháp vang rền mà riêng ông ta chẳng nghe được. Vị cam lộ diệt khổ mà riêng ông ta chẳng nếm được. Thế nên cứ triển chuyển mãi trong năm đường sanh tử đến nhiều số kiếp. Thử hỏi đến khi nào mới được độ?"

佛Phật 以dĩ 慈từ 愍mẫn 而nhi 說thuyết 偈kệ 言ngôn
Bấy giờ Đức Phật với lòng từ mẫn mà nói kệ rằng:

見kiến 諦Đế 淨tịnh 無vô 穢uế
已dĩ 度độ 五ngũ 道đạo 淵uyên

佛Phật 出xuất 照chiếu 世thế 間gian

為vì 除trừ 眾chúng 憂ưu 苦khổ


"Thấy Pháp tịnh vô uế
Đã lìa năm đường ác
Phật xuất chiếu thế gian
Diệt trừ khổ chúng sanh

得đắc 生sanh 人nhân 道đạo 難nan
生sanh 壽thọ 亦diệc 難nan 得đắc

世thế 間gian 有hữu 佛Phật 難nan

佛Phật 法Pháp 難nan 得đắc 聞văn


Khó được sanh làm người
Khó được sống trường thọ
Khó gặp Phật xuất thế
Khó nghe Pháp của Phật"

佛Phật 說thuyết 此thử 偈kệ 時thời 空không 中trung 五ngũ 百bách 天thiên 人nhân 聞văn 偈kệ 歡hoan 忻hãn 皆giai 得đắc 須Tu 陀Đà 洹Hoàn 道Đạo
Giữa lúc Phật nói kệ đó thì cũng có 500 vị trời đang ở trong hư không, khi nghe kệ của Phật, họ vui mừng và đều đắc Quả Dự Lưu.

安An 寧Ninh 品Phẩm 第đệ 二nhị 十thập 三tam
Phẩm 23: An Lạc


昔tích 佛Phật 在tại 羅La 閱Duyệt 祇Kỳ 東đông 南nam 三tam 百bách 里lý 有hữu 山sơn 民dân 村thôn 五ngũ 百bách 餘dư 家gia 為vi 人nhân 剛cang 強cường 難nan 以dĩ 導đạo 化hóa
Thuở xưa có một ngọn núi, cách thành Vương Xá khoảng 300 dặm về hướng đông nam. Ở trên ngọn núi này có một thôn làng có hơn 500 hộ gia đình. Tánh tình của họ cang cường và khó giáo hóa.

宿túc 世thế 福phước 願nguyện 應ưng 蒙mông 開khai 度độ 於ư 是thị 世Thế 尊Tôn 化hóa 作tác 沙Sa 門Môn 至chí 村thôn 分phân 衛vệ 分phân 衛vệ 畢tất 竟cánh 出xuất 於ư 村thôn 外ngoại 樹thụ 下hạ 坐tọa 定định 入nhập 泥Nê 洹Hoàn 三Tam 昧Muội 至chí 于vu 七thất 日nhật 不bất 喘suyễn 不bất 息tức 不bất 動động 不bất 轉chuyển
Lúc bấy giờ Thế Tôn biết phước đức của họ ở đời trước và đáng được hóa độ, nên Đức Phật hóa làm một vị Đạo Nhân và đi vào trong thôn khất thực. Khi đã khất thực xong, Ngài ra khỏi thôn, rồi ngồi ở dưới một gốc cây và nhập Tịch Diệt Đẳng Trì cho đến bảy ngày, không một hơi thở ra vào và hoàn toàn bất động.

村thôn 人nhân 見kiến 之chi 謂vị 為vi 命mạng 終chung 共cộng 相tương 謂vị 曰viết
Khi thấy vậy, dân làng cho là đã chết nên cùng bảo với nhau rằng:

沙Sa 門Môn 已dĩ 死tử 當đương 共cộng 葬táng 送tống
"Đạo Nhân đã chết rồi! Chúng ta hãy mang ông ấy đi hỏa táng thôi!"

各các 持trì 束thúc 薪tân 就tựu 往vãng 燒thiêu 之chi 火hỏa 然nhiên 薪tân 盡tận 佛Phật 從tùng 坐tọa 起khởi 現hiện 道Đạo 神thần 化hóa 光quang 明minh 照chiếu 曜diệu 感cảm 動động 十thập 方phương 現hiện 變biến 畢tất 訖ngật 還hoàn 坐tọa 樹thụ 下hạ 容dung 體thể 靜tĩnh 安an 怡di 悅duyệt 如như 故cố 村thôn 人nhân 大đại 小tiểu 莫mạc 不bất 驚kinh 懼cụ
Và thế là mỗi người họ mang đến những bó củi để chuẩn bị đốt. Lúc củi đã cháy hết, Đức Phật từ chỗ ngồi đứng dậy, rồi hiện sức thần thông biến hóa và quang minh chiếu sáng khắp mười phương. Sau khi đã hiện thần thông biến hóa, Ngài trở về ngồi ở dưới gốc cây, thân thể an nhiên và hòa vui như xưa. Bấy giờ tất cả dân làng, không ai là chẳng kinh sợ.

稽khể 首thủ 謝tạ 曰viết
Họ cúi đầu tạ lỗi rằng:

山sơn 民dân 頑ngoan 野dã 不bất 識thức 神thần 人nhân 妄vọng 以dĩ 薪tân 火hỏa 燒thiêu 於ư 未vị 然nhiên 自tự 惟duy 獲hoạch 罪tội 重trọng 於ư 太thái 山sơn 唯duy 垂thùy 慈từ 赦xá 不bất 見kiến 咎cữu 怨oán 不bất 審thẩm 神thần 人nhân 得đắc 無vô 傷thương 病bệnh 乎hồ 將tương 無vô 愁sầu 慼thích 乎hồ 將tương 無vô 飢cơ 渴khát 乎hồ 將tương 無vô 熱nhiệt 惱não 乎hồ
"Chúng con là những kẻ sơn dã ương ngạnh và chẳng biết thần thánh, nên mới lấy củi đi hỏa thiêu ngài. Tuy nhiên, ngài thì vẫn giống như trước khi bị đốt. Chúng con tự suy nghĩ lại về nghiệp tội đã tạo và nó nặng như thái sơn. Cầu xin ngài hãy rủ lòng từ bi tha thứ và đừng ghi nhớ lỗi lầm của chúng con mà sanh oán. Chẳng hay đức thần có bị lửa làm tổn thương chăng? Ngài không có ưu sầu khổ não, không có đói khát, hoặc bị phiền não gì chứ?"

於ư 是thị 世Thế 尊Tôn 和hòa 顏nhan 含hàm 笑tiếu 而nhi 說thuyết 偈kệ 言ngôn
Lúc bấy giờ Thế Tôn với nét mặt hiền hòa, Ngài mỉm cười và nói kệ rằng:

我ngã 生sanh 已dĩ 安an
不bất 慍uấn 於ư 怨oán

眾chúng 人nhân 有hữu 怨oán

我ngã 行hành 無vô 怨oán


"Ta sống trong bình an
Chẳng ôm lòng oán hận
Giữa chúng người thù hận
Ta sống không hận thù

我ngã 生sanh 已dĩ 安an
不bất 病bệnh 於ư 病bệnh

眾chúng 人nhân 有hữu 病bệnh

我ngã 行hành 無vô 病bệnh


Ta sống trong bình an
Chẳng mắc bệnh phiền não
Giữa chúng người phiền não
Ta sống không não phiền

我ngã 生sanh 已dĩ 安an
不bất 慼thích 於ư 憂ưu

眾chúng 人nhân 有hữu 憂ưu

我ngã 行hành 無vô 憂ưu


Ta sống trong bình an
Chẳng lo lắng ưu sầu
Giữa chúng người lo âu
Ta sống không âu lo

我ngã 生sanh 已dĩ 安an
清thanh 淨tịnh 無vô 為vi

以dĩ 樂lạc 為vi 食thực

如như 光Quang 音Âm 天Thiên


Ta sống trong bình an
Thanh tịnh và vô vi
Lấy vui làm thức ăn
Như ở trời Quang Âm

我ngã 生sanh 已dĩ 安an
恬điềm 惔đàm 無vô 事sự

彌di 薪tân 國quốc 火hỏa

安an 能năng 燒thiêu 我ngã


Ta sống trong bình an
Đạm bạc không phiền toái
Dù mang củi cả nước
Cũng chẳng thể đốt ta"

爾nhĩ 時thời 村thôn 中trung 五ngũ 百bách 人nhân 聞văn 說thuyết 偈kệ 已dĩ 皆giai 作tác 沙Sa 門Môn 得đắc 羅La 漢Hán 道Đạo 村thôn 人nhân 大đại 小tiểu 皆giai 信tín 三Tam 尊Tôn 佛Phật 與dữ 五ngũ 百bách 人nhân 飛phi 還hoàn 竹Trúc 園Viên
Khi nghe kệ xong, có 500 người trong thôn xin làm Đạo Nhân và đều đắc Đạo Ưng Chân. Tất cả kẻ lớn người nhỏ ở trong thôn đều kính tin Tam Bảo. Sau đó Đức Phật cùng với 500 vị Đạo Nhân bay lên hư không và trở về Tinh xá Trúc Lâm.

賢Hiền 者giả 阿A 難Nan 見kiến 佛Phật 與dữ 得đắc 道Đạo 者giả 俱câu 來lai 前tiền 白bạch 佛Phật 言ngôn
Khi trông thấy Đức Phật dẫn những vị đắc Đạo về tinh xá, Hiền giả Khánh Hỷ đến ở trước Phật và bạch rằng:

此thử 諸chư 比Bỉ 丘Khâu 有hữu 何hà 異dị 德đức 乃nãi 使sử 世Thế 尊Tôn 自tự 往vãng 臨lâm 度độ
"[Bạch Thế Tôn!] Những vị Bhikṣu này có phước đức đặc biệt gì mà khiến Thế Tôn đích thân đến hóa độ vậy?"

佛Phật 告cáo 阿A 難Nan
Phật bảo ngài Khánh Hỷ:

我ngã 未vị 下hạ 為vi 佛Phật 時thời 世thế 有hữu 辟Bích 支Chi 佛Phật 常thường 處xử 是thị 山sơn 去khứ 村thôn 不bất 遠viễn 在tại 一nhất 樹thụ 下hạ 欲dục 般Bát 泥Nê 洹Hoàn 現hiện 道Đạo 神thần 德đức 便tiện 取thủ 滅diệt 度độ 村thôn 人nhân 持trì 薪tân 火hỏa 就tựu 往vãng 燒thiêu 之chi 斂liểm 取thủ 舍xá 利lợi 著trước 寶bảo 瓶bình 中trung 埋mai 在tại 山sơn 頂đảnh
"Trước khi ta hạ sanh để thành Phật, bấy giờ ở thế gian có một vị Độc Giác thường ở trong núi đó. Ở dưới một gốc cây cách thôn không xa, bởi ngài muốn vào tịch diệt nên đã thị hiện thần thông Đạo lực, rồi sau đó diệt độ. Lúc đó dân chúng trong thôn mang củi đến để hỏa thiêu, rồi nhặt lấy xá-lợi bỏ vào trong bình và chôn ở trên đỉnh núi.

各các 共cộng 求cầu 願nguyện
Khi ấy mỗi người họ phát nguyện rằng:

願nguyện 後hậu 得đắc 道Đạo 如như 是thị 沙Sa 門Môn 滅diệt 度độ 快khoái 樂lạc 也dã
'Nguyện cho mai sau con cũng sẽ đắc Đạo tịch diệt an vui như vị Đạo Nhân này.'

緣duyên 此thử 福phước 故cố 應ưng 當đương 得đắc 道Đạo 是thị 故cố 如Như 來Lai 往vãng 度độ 之chi 耳nhĩ
Bởi nhân duyên của phước ấy mà khiến sẽ đắc Đạo. Thế nên Như Lai mới đến hóa độ cho họ vậy."

佛Phật 說thuyết 是thị 時thời 天thiên 人nhân 無vô 數số 皆giai 得đắc 道Đạo 迹tích
Khi Phật nói lời ấy xong, vô số trời người đều thấy dấu Đạo.




昔tích 佛Phật 在tại 舍Xá 衛Vệ 國Quốc 精tinh 舍xá 時thời 有hữu 四tứ 比Bỉ 丘Khâu 坐tọa 於ư 樹thụ 下hạ 共cộng 相tương 問vấn 言ngôn
Thuở xưa khi Phật ở Tinh xá Kỳ Viên gần thành Phong Đức, bấy giờ có bốn vị Bhikṣu đang ngồi dưới một gốc cây và bàn luận với nhau rằng:

一nhất 切thiết 世thế 間gian 何hà 者giả 最tối 苦khổ
"Nỗi khổ lớn nhất ở trên đời là gì?"

一nhất 人nhân 言ngôn
Một vị nói rằng:

天thiên 下hạ 之chi 苦khổ 無vô 過quá 婬dâm 欲dục
"Nỗi khổ lớn nhất ở trên đời, không gì hơn dâm dục."

一nhất 人nhân 言ngôn
Một vị khác nói rằng:

世thế 間gian 之chi 苦khổ 無vô 過quá 瞋sân 恚khuể
"Nỗi khổ lớn nhất ở trên đời, không gì hơn sân hận."

一nhất 人nhân 言ngôn
Một vị khác nói rằng:

世thế 間gian 之chi 苦khổ 無vô 過quá 飢cơ 渴khát
"Nỗi khổ lớn nhất ở trên đời, không gì hơn đói khát."

一nhất 人nhân 言ngôn
Một vị khác nói rằng:

天thiên 下hạ 之chi 苦khổ 莫mạc 過quá 驚kinh 怖bố
"Nỗi khổ lớn nhất ở trên đời, không gì hơn sợ hãi."

共cộng 諍tranh 苦khổ 義nghĩa 云vân 云vân 不bất 止chỉ
Và thế là họ cùng nhau tranh luận về ý nghĩa của khổ liên tục chẳng ngừng.

佛Phật 知tri 其kỳ 言ngôn 往vãng 到đáo 其kỳ 所sở 問vấn 諸chư 比Bỉ 丘Khâu
Bởi biết được điều họ đang tranh luận, Đức Phật đi đến chỗ của các vị Bhikṣu và hỏi rằng:

屬thuộc 論luận 何hà 事sự
"Các thầy đang luận nghị việc gì?"

即tức 起khởi 作tác 禮lễ 具cụ 白bạch 所sở 論luận
Họ liền đứng dậy, đảnh lễ và kể lại toàn bộ sự việc đang bàn luận.

佛Phật 言ngôn
Đức Phật bảo:

比Bỉ 丘Khâu 汝nhữ 等đẳng 所sở 論luận 不bất 究cứu 苦khổ 義nghĩa 天thiên 下hạ 之chi 苦khổ 莫mạc 過quá 有hữu 身thân 飢cơ 渴khát 寒hàn 熱nhiệt 瞋sân 恚khuể 驚kinh 怖bố 色sắc 欲dục 怨oán 禍họa 皆giai 由do 於ư 身thân 夫phù 身thân 者giả 眾chúng 苦khổ 之chi 本bổn 患hoạn 禍họa 之chi 元nguyên 勞lao 心tâm 極cực 慮lự 憂ưu 畏úy 萬vạn 端đoan 三tam 界giới 蠕nhuyễn 動động 更cánh 相tương 殘tàn 賊tặc 吾ngô 我ngã 縛phược 著trước 生sanh 死tử 不bất 息tức 皆giai 由do 於ư 身thân 欲dục 離ly 世thế 苦khổ 當đương 求cầu 寂tịch 滅diệt 攝nhiếp 心tâm 守thủ 正chánh 怕phạ 然nhiên 無vô 想tưởng 可khả 得đắc 泥Nê 洹Hoàn 此thử 為vi 最tối 樂lạc
"Này các Bhikṣu! Điều mà các thầy đang bàn luận đều chẳng phải là ý nghĩa cứu cánh của khổ. Nỗi khổ lớn nhất ở trên đời, không gì hơn có thân. Đói khát, nóng lạnh, sân hận, sợ hãi, sắc dục, oán thù, và tai họa đều do bởi có thân này. Thân là nguồn gốc của mọi sự khổ não và tai vạ, là đầu mối khiến cho tâm khổ nhọc và ưu lo sợ hãi muôn vàn. Do nó mà khiến chúng sanh trong ba cõi làm hại lẫn nhau. Họ bị trói buộc bởi cái thấy của chính mình và người khác mà sanh tử chẳng dừng. Tất cả đều do thân. Nếu ai muốn lìa nỗi khổ của thế gian thì nên cầu tịch diệt. Hãy thu nhiếp tâm ý, giữ chánh niệm tịch nhiên, và không khởi vọng tưởng thì sẽ có thể đạt đến tịch diệt. Đây là niềm an vui tối thượng."

於ư 是thị 世Thế 尊Tôn 即tức 說thuyết 偈kệ 言ngôn
Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:

熱nhiệt 無vô 過quá 婬dâm
毒độc 無vô 過quá 怒nộ

苦khổ 無vô 過quá 身thân

樂lạc 無vô 過quá 滅diệt


"Lửa nào bằng dâm dục
Độc nào bằng phẫn nộ
Khổ nào bằng phiền não
Vui nào bằng tịch diệt

無vô 樂nhạo 小tiểu 樂lạc
小tiểu 辯biện 小tiểu 慧tuệ

觀quán 求cầu 大đại 者giả

乃nãi 獲hoạch 大đại 安an


Chớ thích niềm vui nhỏ
Trí nhỏ biện luận nhỏ
Hãy cầu đại trí tuệ
Mới được an vui lớn

我ngã 為vi 世Thế 尊Tôn
長trường 解giải 無vô 憂ưu

正chánh 度độ 三tam 有hữu

獨độc 降hàng 眾chúng 魔ma


Ta là Đức Thế Tôn
Giải thoát vĩnh không sầu
Siêu việt khỏi ba cõi
Một mình hàng chúng ma"

佛Phật 說thuyết 偈kệ 已dĩ 告cáo 諸chư 比Bỉ 丘Khâu
Khi nói kệ xong, Đức Phật bảo các vị Bhikṣu rằng:

往vãng 昔tích 久cửu 遠viễn 無vô 數số 世thế 時thời 有hữu 五ngũ 通thông 比Bỉ 丘Khâu 名danh 精Tinh 進Tấn 力Lực 在tại 山sơn 中trung 樹thụ 下hạ 閑nhàn 寂tịch 求cầu 道Đạo
"Vào thuở xa xưa vô số đời về trước, bấy giờ có một vị Bhikṣu đã chứng năm loại thần thông, tên là Tinh Tấn Lực. Ngài sống ẩn dật yên tĩnh dưới một gốc cây ở trong núi để cầu Đạo.

時thời 有hữu 四tứ 禽cầm 依y 附phụ 左tả 右hữu 常thường 得đắc 安an 隱ẩn 一nhất 者giả 鴿cáp 二nhị 者giả 烏ô 三tam 者giả 毒độc 蛇xà 四tứ 者giả 鹿lộc 是thị 四tứ 禽cầm 者giả 晝trú 行hành 求cầu 食thực 暮mộ 則tắc 來lai 還hoàn
Lúc ấy có bốn loài cầm thú cư trú xung quanh của ngài để nương tựa và nhờ đó mà chúng luôn được an ổn. Chúng là bồ câu, quạ, rắn độc, và nai. Ban ngày bốn loài cầm thú này đi tìm thức ăn và đến tối thì trở về.

四tứ 禽cầm 一nhất 夜dạ 自tự 相tương 問vấn 言ngôn
Một đêm nọ, chúng bàn luận với nhau rằng:

世thế 間gian 之chi 苦khổ 何hà 者giả 為vi 重trọng
'Nỗi khổ lớn nhất ở trên đời là gì?'

烏ô 言ngôn
Chim quạ nói rằng:

飢cơ 渴khát 最tối 苦khổ 飢cơ 渴khát 之chi 時thời 身thân 羸luy 目mục 冥minh 神thần 識thức 不bất 寧ninh 投đầu 身thân 羅la 網võng 不bất 顧cố 鋒phong 刃nhận 我ngã 等đẳng 喪táng 身thân 莫mạc 不bất 由do 之chi 以dĩ 此thử 言ngôn 之chi 飢cơ 渴khát 為vi 苦khổ
'Đói khát là nỗi khổ lớn nhất. Lúc đói khát thì thân thể gầy yếu, mắt lờ đờ, và tinh thần chẳng an, khiến phải sa vào lưới mà không nhìn mũi nhọn. Chúng tôi mất mạng đều là do nó. Thông qua lời nói này, đói khát là nỗi khổ lớn nhất vậy.'

鴿cáp 言ngôn
Bồ câu nói rằng:

婬dâm 欲dục 最tối 苦khổ 色sắc 欲dục 熾sí 盛thịnh 無vô 所sở 顧cố 念niệm 危nguy 身thân 滅diệt 命mạng 莫mạc 不bất 由do 之chi
'Dâm dục là nỗi khổ lớn nhất. Khi sắc dục khởi lên hẫy hừng thì không còn nhớ gì hết. Thân tàn mạng mất đều là do nó.'

毒độc 蛇xà 言ngôn
Rắn độc nói rằng:

瞋sân 恚khuể 最tối 苦khổ 毒độc 意ý 一nhất 起khởi 不bất 避tị 親thân 踈sơ 亦diệc 能năng 殺sát 人nhân 復phục 能năng 自tự 殺sát
'Sân hận là nỗi khổ lớn nhất. Khi tâm độc phát khởi thì chẳng kể thân sơ cũng đều có thể giết, và cũng có thể giết cả chính mình.'

鹿lộc 言ngôn
Nai nói rằng:

驚kinh 怖bố 最tối 苦khổ 我ngã 遊du 林lâm 野dã 心tâm 恒hằng 怵truật 惕dịch 畏úy 懼cụ 獵liệp 師sư 及cập 諸chư 豺sài 狼lang 髣phảng 髴phất 有hữu 聲thanh 奔bôn 投đầu 坑khanh 岸ngạn 母mẫu 子tử 相tương 捐quyên 肝can 膽đảm 悼điệu 悸quý 以dĩ 此thử 言ngôn 之chi 驚kinh 怖bố 為vi 苦khổ
'Sợ hãi là nỗi khổ lớn nhất. Tôi đi trong rừng hoang mà trong lòng luôn phập phồng lo sợ thợ săn và bầy sói. Giả như có tiếng động, chúng tôi cắm đầu chạy bạt mạng, khiến phải rơi xuống hố, mẹ con thất lạc lẫn nhau, và gan mật muốn rớt ra ngoài. Thông qua lời nói này, sợ hãi là nỗi khổ lớn nhất vậy.'

比Bỉ 丘Khâu 聞văn 之chi 即tức 告cáo 之chi 曰viết
Khi nghe chúng nói chuyện, vị Bhikṣu bảo rằng:

汝nhữ 等đẳng 所sở 論luận 是thị 其kỳ 末mạt 耳nhĩ 不bất 究cứu 苦khổ 本bổn 天thiên 下hạ 之chi 苦khổ 無vô 過quá 有hữu 身thân 身thân 為vi 苦khổ 器khí 憂ưu 畏úy 無vô 量lượng 吾ngô 以dĩ 是thị 故cố 捨xả 俗tục 學học 道Đạo 滅diệt 意ý 斷đoạn 想tưởng 不bất 貪tham 四tứ 大đại 欲dục 斷đoạn 苦khổ 原nguyên 志chí 存tồn 泥Nê 洹Hoàn 泥Nê 洹Hoàn 道Đạo 者giả 寂tịch 滅diệt 無vô 形hình 憂ưu 患hoạn 永vĩnh 畢tất 爾nhĩ 乃nãi 大đại 安an
'Việc bàn luận của các con chỉ là ngọn ngành của nó mà thôi, không phải là căn gốc của khổ. Nỗi khổ lớn nhất ở trên đời, không gì hơn có thân. Thân là vật chứa của khổ. Nó phát sanh vô lượng lo âu và sợ hãi. Bởi vậy ta mới lìa bỏ thế tục để học Đạo: diệt trừ vọng tưởng, không tham luyến nơi bốn đại, luôn mong đoạn trừ gốc của khổ, và chí hướng đến tịch diệt. Đạo tịch diệt là yên tĩnh và không hình sắc. Khi ưu sầu và hoạn nạn đã vĩnh viễn trừ bỏ thì mới được an vui lớn.'

四tứ 禽cầm 聞văn 之chi 心tâm 即tức 開khai 解giải
Khi bốn loài cầm thú nghe rồi, tâm chúng liền tỏ ngộ."

佛Phật 告cáo 比Bỉ 丘Khâu
Phật bảo các vị Bhikṣu rằng:

爾nhĩ 時thời 五ngũ 通thông 比Bỉ 丘Khâu 則tắc 吾ngô 身thân 是thị 時thời 四tứ 禽cầm 者giả 今kim 汝nhữ 四tứ 人nhân 是thị 也dã 前tiền 世thế 已dĩ 聞văn 苦khổ 本bổn 之chi 義nghĩa 如như 何hà 今kim 日nhật 方phương 復phục 云vân 爾nhĩ
"Vị Bhikṣu chứng năm loại thần thông thuở ấy chính là tiền thân của Ta. Bốn loài cầm thú thuở đó, nay chính là bốn thầy đây vậy. Ở đời trước các thầy đã nghe được ý nghĩa về gốc của khổ, sao hôm nay lại còn tranh luận nữa?"

比Bỉ 丘Khâu 聞văn 之chi 慚tàm 愧quý 自tự 責trách 即tức 於ư 佛Phật 前tiền 得đắc 羅La 漢Hán 道Đạo
Khi nghe Phật nói, các vị Bhikṣu hổ thẹn tự trách, và liền đắc Đạo Ưng Chân ở trước Phật.

好Hiếu 喜Hỷ 品Phẩm 第đệ 二nhị 十thập 四tứ
Phẩm 24: Yêu Thương


昔tích 佛Phật 在tại 舍Xá 衛Vệ 精tinh 舍xá 時thời 有hữu 四tứ 新tân 學học 比Bỉ 丘Khâu 相tương 將tương 至chí 㮈nại 樹thụ 下hạ 坐tọa 禪thiền 行hành 道Đạo 㮈nại 華hoa 榮vinh 茂mậu 色sắc 好hảo 且thả 香hương
Thuở xưa khi Phật ở Tinh xá Kỳ Viên gần thành Phong Đức, bấy giờ có bốn vị Bhikṣu vừa mới xuất gia. Họ cùng tĩnh tọa tu tĩnh lự và thực hành Đạo ở dưới một gốc cây xoài. Vào một ngày nọ, cây xoài nở hoa rực rỡ, có màu sắc đẹp và còn tỏa ngát thơm.

因nhân 相tương 謂vị 曰viết
Nhân đó họ bàn luận với nhau rằng:

世thế 間gian 萬vạn 物vật 何hà 者giả 可khả 愛ái 以dĩ 快khoái 人nhân 情tình
"Vạn vật trên thế gian, điều gì là yêu quý nhất mà khiến lòng người say đắm?"

一nhất 人nhân 言ngôn
Một vị nói rằng:

仲trọng 春xuân 之chi 月nguyệt 日nhật 木mộc 榮vinh 華hoa 遊du 戲hí 原nguyên 野dã 此thử 最tối 為vi 樂lạc
"Vào giữa mùa xuân, đương lúc cây cối tươi tốt nở hoa mà được du ngoạn ngắm cảnh trên cánh đồng hoang dã thì đó là điều vui nhất."

一nhất 人nhân 言ngôn
Một vị khác nói rằng:

宗tông 親thân 吉cát 會hội 觴thương 酌chước 交giao 錯thác 音âm 樂nhạc 歌ca 舞vũ 此thử 最tối 為vi 樂lạc
"Thân quyến sum vầy, rót rượu chung vui, và âm nhạc ca vũ thì đó là điều vui nhất."

一nhất 人nhân 言ngôn
Một vị khác nói rằng:

多đa 積tích 財tài 寶bảo 所sở 欲dục 即tức 得đắc 車xa 馬mã 服phục 飾sức 與dữ 眾chúng 有hữu 異dị 出xuất 入nhập 光quang 顯hiển 行hành 者giả 矚chú 目mục 此thử 最tối 為vi 樂lạc
"Tích trữ nhiều tài bảo để muốn gì được nấy. Ngựa xe, y phục, và trang sức hiếm lạ hơn mọi người. Lúc ra ngoài hay vào nhà sẽ lộng lẫy xa hoa, khiến những kẻ đi đường cứ nhìn chăm chú mãi. Đây là điều vui nhất."

一nhất 人nhân 言ngôn
Một vị khác nói rằng:

妻thê 妾thiếp 端đoan 正chánh 綵thải 服phục 鮮tiên 明minh 香hương 熏huân 芬phân 馥phức 恣tứ 意ý 縱túng 情tình 此thử 最tối 為vi 樂lạc
"Thê thiếp xinh đẹp, áo lụa sáng láng, mùi thơm tỏa ngát, và buông ý theo sở thích. Đây là điều vui nhất."

佛Phật 知tri 四tứ 人nhân 應ưng 可khả 化hóa 度độ
Bấy giờ Đức Phật biết bốn người họ có nhân duyên đáng được hóa độ.

而nhi 走tẩu 意ý 六lục 欲dục 不bất 惟duy 無vô 常thường 即tức 呼hô 四tứ 人nhân 而nhi 問vấn 之chi 曰viết
Nhân lúc tâm ý của họ đang rong rủi theo năm dục mà chẳng tư duy vô thường, nên Ngài liền gọi bốn người họ và hỏi rằng:

屬thuộc 坐tọa 樹thụ 下hạ 共cộng 論luận 何hà 事sự
"Các thầy ngồi ở dưới gốc cây đang luận nghị việc gì?"

四tứ 人nhân 以dĩ 實thật 具cụ 白bạch 所sở 樂lạc
Bốn người họ liền thuật lại tường tận sự việc.

佛Phật 告cáo 四tứ 人nhân
Phật bảo bốn vị Bhikṣu rằng:

汝nhữ 等đẳng 所sở 論luận 盡tận 是thị 憂ưu 畏úy 危nguy 亡vong 之chi 道đạo 非phi 是thị 永vĩnh 安an 最tối 樂lạc 之chi 法Pháp 也dã 萬vạn 物vật 春xuân 榮vinh 秋thu 冬đông 衰suy 落lạc 宗tông 親thân 歡hoan 娛ngu 皆giai 當đương 別biệt 離ly 財tài 寶bảo 車xa 馬mã 五ngũ 家gia 之chi 分phần 妻thê 妾thiếp 美mỹ 色sắc 愛ái 憎tăng 之chi 主chủ 也dã 凡phàm 夫phu 處xử 世thế 興hưng 招chiêu 怨oán 禍họa 危nguy 身thân 滅diệt 族tộc 憂ưu 畏úy 無vô 量lượng 三tam 塗đồ 八bát 難nạn 苦khổ 痛thống 萬vạn 端đoan 靡mĩ 不bất 由do 之chi 矣hĩ 是thị 以dĩ 比Bỉ 丘Khâu 捨xả 世thế 求cầu 道Đạo 志chí 存tồn 無vô 為vi 不bất 貪tham 榮vinh 利lợi 自tự 致trí 泥Nê 洹Hoàn 乃nãi 為vi 最tối 樂lạc
"Điều các thầy đang bàn luận đều là con đường hiểm nguy dẫn đến ưu sầu sợ hãi, không phải là Pháp an lạc cứu cánh. Vạn vật tươi tốt khi xuân đến và rơi rụng khi thu tàn. Thân thuộc vui vẻ sum vầy rồi cũng biệt ly. Tài bảo ngựa xe, họ hàng quyến thuộc, và vợ đẹp thiếp xinh là những đầu mối của sự thương ghét. Do chúng mà phàm phu sống ở đời phát khởi oán thù và tai họa, khiến thân tộc bị nguy hiểm và diệt vong. Chúng mang đến vô lượng ưu lo sợ hãi, khiến chúng sanh rơi vào tám nạn hoặc ở trong ba đường ác để chịu thống khổ muôn vàn--tất cả đều do chúng mà ra. Cho nên các vị Bhikṣu phải lìa bỏ thế tục để cầu Đạo, chí hướng đến vô vi, không tham danh lợi, và đạt đến tịch diệt thì mới là điều an vui nhất vậy."

於ư 是thị 世Thế 尊Tôn 即tức 說thuyết 偈kệ 言ngôn
Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:

愛ái 喜hỷ 生sanh 憂ưu
愛ái 喜hỷ 生sanh 畏úy

無vô 所sở 愛ái 喜hỷ

何hà 憂ưu 何hà 畏úy


"Yêu thương sanh âu lo
Yêu thương sanh sợ hãi
Yêu thương nếu chẳng có
Lo sợ làm sao sanh?

好hiếu 樂lạc 生sanh 憂ưu
好hiếu 樂lạc 生sanh 畏úy

無vô 所sở 好hiếu 樂lạc

何hà 憂ưu 何hà 畏úy


Mong cầu sanh âu lo
Mong cầu sanh sợ hãi
Mong cầu nếu chẳng có
Lo sợ làm sao sanh?

貪tham 欲dục 生sanh 憂ưu
貪tham 欲dục 生sanh 畏úy

解giải 無vô 貪tham 欲dục

何hà 憂ưu 何hà 畏úy


Tham dục sanh âu lo
Tham dục sanh sợ hãi
Tham dục nếu chẳng có
Lo sợ làm sao sanh?

貪tham 法Pháp 戒giới 成thành
至chí 誠thành 知tri 慚tàm

行hành 身thân 近cận 道Đạo

為vi 眾chúng 所sở 愛ái


Trì Pháp, giới thành tựu
Chí thành biết xấu hổ
Tu hành gần với Đạo
Mọi người đều mến thương

欲dục 態thái 不bất 出xuất
思tư 正chánh 乃nãi 語ngữ

心tâm 無vô 貪tham 愛ái

必tất 截tiệt 流lưu 度độ


Chẳng phóng túng tham dục
Suy nghĩ kỹ mới nói
Tâm không tham ái dục
Tất chặt đứt luân hồi"

佛Phật 告cáo 四tứ 比Bỉ 丘Khâu
Phật bảo bốn vị Bhikṣu rằng:

昔tích 有hữu 國quốc 王vương 名danh 曰viết 普Phổ 安An 與dữ 隣lân 國quốc 四tứ 王vương 共cộng 為vi 親thân 友hữu 請thỉnh 此thử 四tứ 王vương 宴yến 會hội 一nhất 月nguyệt 飲ẩm 食thực 娛ngu 樂lạc 極cực 歡hoan 無vô 比tỉ
"Thuở xưa có một vị quốc vương cùng kết bạn với bốn ông vua ở nước lân cận, tên là Phổ An. Một hôm ngài mời bốn vua bạn đến dự yến tiệc suốt một tháng. Họ ăn uống vui chơi và sự vui sướng đó không gì sánh bằng.

臨lâm 別biệt 之chi 日nhật 普Phổ 安An 王Vương 問vấn 四tứ 王vương 曰viết
Vào ngày sắp từ biệt, vua Phổ An hỏi bốn vua bạn rằng:

人nhân 居cư 世thế 間gian 以dĩ 何hà 為vi 樂lạc
'Con người sống trên thế gian, điều gì là vui nhất?'

一nhất 王vương 言ngôn
Một vị vua nói rằng:

遊du 戲hí 為vi 樂lạc
'Du ngoạn ngắm cảnh là điều vui nhất.'

一nhất 王vương 言ngôn
Một vị vua khác nói rằng:

宗tông 親thân 吉cát 會hội 音âm 樂nhạc 為vi 樂lạc
'Thân quyến sum vầy và âm nhạc ca vũ là điều vui nhất.'

一nhất 王vương 言ngôn
Một vị vua khác nói rằng:

多đa 積tích 財tài 寶bảo 所sở 欲dục 如như 意ý 為vi 樂lạc
'Tích trữ nhiều tài bảo để muốn gì được nấy là điều vui nhất.'

一nhất 王vương 言ngôn
Một vị vua khác nói rằng:

愛ái 欲dục 恣tứ 情tình 此thử 最tối 為vi 樂lạc
'Đắm say trong ái dục là điều vui nhất.'

普Phổ 安An 王Vương 言ngôn
Vua Phổ An nói rằng:

卿khanh 等đẳng 所sở 論luận 是thị 苦khổ 惱não 之chi 本bổn 憂ưu 畏úy 之chi 原nguyên 前tiền 樂lạc 後hậu 苦khổ 憂ưu 悲bi 萬vạn 端đoan 皆giai 由do 此thử 興hưng 不bất 如như 寂tịch 靜tĩnh 無vô 求cầu 無vô 欲dục 淡đạm 泊bạc 守thủ 一nhất 得đắc 道Đạo 為vi 樂lạc
'Điều mà các ngài nói đều là gốc của khổ não, căn nguyên của ưu sầu sợ hãi. Tuy trước có vui nhưng sau sẽ chịu muôn vàn khổ đau. Tất cả đều do chúng mà khởi sanh. Chẳng bằng như tịch tĩnh, vô cầu vô dục, và sống đạm bạc với chánh niệm thì sẽ đắc Đạo an vui.'

四tứ 王vương 聞văn 之chi 歡hoan 喜hỷ 信tín 解giải
Khi nghe xong, bốn vị vua hoan hỷ tín giải."

佛Phật 告cáo 四tứ 比Bỉ 丘Khâu
Phật bảo bốn vị Bhikṣu rằng:

爾nhĩ 時thời 普Phổ 安An 王Vương 者giả 我ngã 身thân 是thị 也dã 四tứ 王vương 者giả 汝nhữ 四tứ 人nhân 是thị 也dã 前tiền 已dĩ 說thuyết 之chi 今kim 故cố 不bất 解giải 生sanh 死tử 莚diên 蔓mạn 何hà 由do 休hưu 息tức
"Vua Phổ An thuở xưa chính là tiền thân của Ta. Còn bốn vua bạn chính là bốn thầy đây vậy. Ở đời trước các thầy đã nghe giảng về ý nghĩa này nhưng nay còn chưa hiểu. Sanh tử triền miên như thế đến bao giờ mới ngừng nghỉ?"

時thời 四tứ 比Bỉ 丘Khâu 重trùng 聞văn 此thử 義nghĩa 慚tàm 愧quý 悔hối 過quá 心tâm 意ý 開khai 悟ngộ 滅diệt 意ý 斷đoạn 欲dục 得đắc 羅La 漢Hán 道Đạo
Khi nghe được về ý nghĩa này thêm một lần nữa, bốn vị Bhikṣu cảm thấy hổ thẹn, rồi sám hối lỗi lầm và tâm ý khai ngộ. Sau đó họ diệt trừ dục niệm và đắc Đạo Ưng Chân.

忿Phẫn 怒Nộ 品Phẩm 第đệ 二nhị 十thập 五ngũ
Phẩm 25: Sân Hận


昔tích 佛Phật 在tại 羅La 閱Duyệt 祇Kỳ 耆Kỳ 闍Xà 崛Quật 山Sơn 中trung 時thời 調Điều 達Đạt 與dữ 阿A 闍Xà 貰Thế 王Vương 共cộng 議nghị 毀hủy 佛Phật 及cập 諸chư 弟đệ 子tử 王vương 勅sắc 國quốc 人nhân 不bất 得đắc 奉phụng 佛Phật 眾chúng 僧Tăng 分phân 衛vệ 不bất 得đắc 施thí 與dữ
Thuở xưa Đức Phật ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá. Bấy giờ Bhikṣu Thiên Thọ và vua Vị Sanh Oán cùng âm mưu hủy diệt Đức Phật và các đệ tử. Nhà vua ra lệnh toàn quốc không được phụng sự Đức Phật và không được cúng dường cho chư Tăng đi khất thực.

時thời 舍Xá 利Lợi 弗Phất 目Mục 連Liên 迦Ca 葉Diếp 須Tu 菩Bồ 提Đề 等đẳng 及cập 波Ba 和Hòa 提Đề 比Bỉ 丘Khâu 尼Ni 等đẳng 各các 將tương 弟đệ 子tử 去khứ 到đáo 他tha 國quốc 唯duy 佛Phật 與dữ 五ngũ 百bách 羅La 漢Hán 住trú 崛Quật 山Sơn 中trung
Lúc ấy Tôn giả Thu Lộ Tử, Tôn giả Đại Thải Thục Thị, Tôn giả Đại Ẩm Quang, Tôn giả Thiện Hiện, cùng với Bhikṣuṇī [bíc su ni] Đại Thắng Sanh Chủ và những vị khác, mỗi vị dẫn các đệ tử của mình đi sang nước khác. Chỉ có Đức Phật và 500 vị Ưng Chân ở trên núi Thứu Phong.

調Điều 達Đạt 往vãng 至chí 阿A 闍Xà 貰Thế 所sở 與dữ 王vương 議nghị 言ngôn
Khi ấy Bhikṣu Thiên Thọ đi đến chỗ của vua Vị Sanh Oán và cùng vua mưu tính rằng:

佛Phật 諸chư 弟đệ 子tử 今kim 已dĩ 迸bính 散tán 尚thượng 有hữu 五ngũ 百bách 弟đệ 子tử 在tại 佛Phật 左tả 右hữu 願nguyện 王vương 明minh 日nhật 請thỉnh 佛Phật 入nhập 城thành 吾ngô 當đương 飲ẩm 五ngũ 百bách 大đại 象tượng 令linh 醉túy 佛Phật 來lai 入nhập 城thành 驅khu 使sử 醉túy 象tượng 令linh 踏đạp 殺sát 之chi 盡tận 斷đoạn 其kỳ 種chủng 吾ngô 當đương 作tác 佛Phật 教giáo 化hóa 世thế 間gian
"Nay các đệ tử của Phật đã sơ tán khắp nơi và chỉ có 500 đệ tử ở xung quanh của Phật. Xin đại vương ngày mai hãy thỉnh Phật vào thành. Tôi sẽ cho 500 con voi lớn uống rượu say. Khi Phật vào thành, tôi sẽ ra lệnh cho lùa bầy voi say này để đạp chết Phật, diệt trừ tận gốc, và tôi sẽ làm Phật để giáo hóa thế gian."

阿A 闍Xà 貰Thế 王Vương 聞văn 之chi 歡hoan 喜hỷ 即tức 到đáo 佛Phật 所sở 稽khể 首thủ 作tác 禮lễ 白bạch 佛Phật 言ngôn
Nghe vậy, vua Vị Sanh Oán rất vui mừng, liền đến chỗ của Phật, cúi đầu đảnh lễ và thưa với Phật rằng:

明minh 日nhật 設thiết 薄bạc 施thí 願nguyện 屈khuất 世Thế 尊Tôn 及cập 諸chư 弟đệ 子tử 於ư 宮cung 內nội 食thực
"[Thưa Thế Tôn!] Ngày mai con sẽ dọn chút thức ăn thanh đạm để cúng dường. Kính mong Thế Tôn và các đệ tử vào cung thọ trai."

佛Phật 知tri 其kỳ 謀mưu 答đáp 言ngôn
Tuy Phật biết âm mưu của họ nhưng vẫn đáp rằng:

大đại 善thiện 明minh 旦đán 當đương 往vãng
"Lành thay! Sáng mai Ta sẽ đến."

王vương 退thoái 而nhi 去khứ 還hoàn 語ngứ 調Điều 達Đạt
Nhà vua lui về và nói lại với Bhikṣu Thiên Thọ rằng:

佛Phật 已dĩ 受thọ 請thỉnh 當đương 念niệm 前tiền 計kế 飲ẩm 象tượng 令linh 醉túy 伺tứ 候hậu 待đãi 之chi
"Phật đã nhận lời. Ông hãy theo kế sách trước đây, cho voi uống say rồi chờ đợi Phật đến."

明minh 日nhật 食thực 時thời 佛Phật 與dữ 五ngũ 百bách 羅La 漢Hán 共cộng 入nhập 城thành 門môn 五ngũ 百bách 醉túy 象tượng 鳴minh 鼻tị 而nhi 前tiền 搪đường 揬đột 牆tường 壁bích 樹thụ 木mộc 摧tồi 折chiết 行hành 人nhân 驚kinh 怖bố 一nhất 城thành 戰chiến 慄lật 五ngũ 百bách 羅La 漢Hán 飛phi 在tại 空không 中trung 獨độc 有hữu 阿A 難Nan 在tại 佛Phật 邊biên 住trụ 醉túy 象tượng 齊tề 頭đầu 徑kính 前tiền 趣thú 佛Phật 佛Phật 因nhân 舉cử 手thủ 五ngũ 指chỉ 應ứng 時thời 化hóa 為vi 五ngũ 百bách 師sư 子tử 王vương 同đồng 聲thanh 俱câu 吼hống 震chấn 動động 天thiên 地địa 於ư 是thị 醉túy 象tượng 屈khuất 膝tất 伏phục 地địa 不bất 敢cảm 舉cử 頭đầu 酒tửu 醉túy 尋tầm 解giải 垂thùy 淚lệ 悔hối 過quá 王vương 及cập 臣thần 民dân 莫mạc 不bất 驚kinh 肅túc 世Thế 尊Tôn 徐từ 前tiền 至chí 王vương 殿điện 上thượng 與dữ 諸chư 羅La 漢Hán
Vào lúc thọ trai của ngày hôm sau, Đức Phật và 500 vị Ưng Chân cùng đi vào cổng thành. Bấy giờ 500 con voi say kêu rống dữ dội và tiến đến ầm ầm. Chúng làm tường vách sập đổ, cây cối gãy nát, và khiến toàn dân trong thành kinh hoàng run sợ. 500 vị Ưng Chân liền bay lên không trung và chỉ có một mình Tôn giả Khánh Hỷ đứng bên cạnh của Phật. Lúc ấy voi say quay đầu về hướng của Phật. Đức Phật đưa tay lên và lập tức từ năm ngón tay vọt hóa ra 500 sư tử chúa. Các sư tử chúa cùng một lúc gầm rống nên khiến trời đất chấn động. Khi ấy những con voi say quỳ mọp gối xuống đất và không dám ngước đầu lên. Một hồi sau chúng tỉnh rượu và rơi lệ sám hối. Thấy vậy, nhà vua cùng quần thần và nhân dân, không ai là chẳng kinh sợ và cung kính. Sau đó Thế Tôn và các vị Ưng Chân khoan thai tiến lên cung điện của vua.

食thực 訖ngật 咒chú 願nguyện 王vương 白bạch 佛Phật 言ngôn
Khi Đức Phật đã thọ trai và chú nguyện xong, nhà vua thưa với Phật rằng:

稟bẩm 性tánh 不bất 明minh 信tín 彼bỉ 讒sàm 言ngôn 興hưng 造tạo 逆nghịch 惡ác 圖đồ 為vi 不bất 軌quỹ 願nguyện 垂thùy 大đại 慈từ 恕thứ 我ngã 迷mê 愚ngu
"[Thưa Thế Tôn!] Bổn tánh của con mê muội nên con trót tin lời sàm tấu mà đã âm mưu tạo ra tội ác ngỗ nghịch thế này. Xin Ngài rủ lòng đại từ và tha thứ cho sự ngu mê của con."

於ư 是thị 世Thế 尊Tôn 告cáo 阿A 闍Xà 貰Thế 及cập 諸chư 大đại 眾chúng
Lúc bấy giờ Thế Tôn bảo vua Vị Sanh Oán cùng các đại chúng rằng:

世thế 有hữu 八bát 事sự 興hưng 長trưởng 誹phỉ 謗báng 皆giai 由do 名danh 譽dự 又hựu 貪tham 利lợi 養dưỡng 以dĩ 致trí 大đại 罪tội 累lũy 劫kiếp 不bất 息tức
"Trên đời có tám việc mà sẽ dấy khởi phỉ báng. Tất cả đều là do tham tiếng tăm và lợi dưỡng, nên khiến chúng sanh tạo tội thâm trọng đến nhiều kiếp mà chẳng dừng.

何hà 等đẳng 為vi 八bát 利lợi 衰suy 毀hủy 譽dự 稱xưng 譏cơ 苦khổ 樂lạc
Những gì là tám? Đó là lợi ích, suy hao, hủy hoại, danh dự, xưng tán, chê trách, khổ đau, và vui sướng.

自tự 古cổ 至chí 今kim 尠tiển 不bất 為vi 惑hoặc
Từ xưa đến nay, ít mấy ai mà không bị chúng mê hoặc."

於ư 是thị 世Thế 尊Tôn 即tức 說thuyết 偈kệ 言ngôn
Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:

人nhân 相tương 謗báng 毀hủy
自tự 古cổ 至chí 今kim

既ký 毀hủy 多đa 言ngôn

又hựu 毀hủy 訥nột 忍nhẫn

亦diệc 毀hủy 中trung 和hòa

世thế 無vô 不bất 毀hủy


"Người đời chê bai nhau
Từ xưa cho đến nay
Đã chê ai nói nhiều
Lại chê ai nói ít
Cũng chê ai nói vừa
Chẳng ai không bị chê

欲dục 意ý 非phi 聖thánh
不bất 能năng 折chiết 中trung

一nhất 毀hủy 一nhất 譽dự

但đãn 為vì 名danh 利lợi


Dục niệm không phải thánh
Chẳng thể tự kiềm chế
Lúc khen lúc hủy báng
Chỉ vì lợi với danh

明minh 智trí 所sở 譽dự
唯duy 稱xưng 正chánh 賢hiền

慧tuệ 人nhân 守thủ 戒giới

無vô 所sở 譏cơ 謗báng


Điều khen của thánh nhân
Chỉ khen ai hiền đức
Người trí giữ giới luật
Không chỗ để phỉ báng

如như 羅La 漢Hán 淨tịnh
莫mạc 而nhi 誣vu 謗báng

諸chư 天thiên 咨tư 嗟ta

梵Phạm 釋Thích 所sở 敬kính


Tịnh như bậc Ưng Chân
Chớ có hủy báng họ
Thế nhân đều tán thán
Chư thiên cũng tán dương"

佛Phật 說thuyết 偈kệ 已dĩ 重trùng 告cáo 王vương 曰viết
Khi nói kệ xong, Đức Phật lại bảo nhà vua rằng:

昔tích 有hữu 國quốc 王vương 喜hỷ 食thực 鴈nhạn 肉nhục 常thường 遣khiển 獵liệp 師sư 張trương 網võng 捕bộ 鴈nhạn 日nhật 送tống 一nhất 鴈nhạn 以dĩ 供cung 王vương 食thực
"Thuở xưa có một ông vua rất ưa ăn thịt chim nhạn. Nhà vua luôn sai thợ săn giăng lưới bắt chim nhạn. Mỗi ngày họ phải dâng lên một con chim nhạn để làm bữa ăn cho vua.

時thời 有hữu 鴈nhạn 王vương 將tương 五ngũ 百bách 鴈nhạn 飛phi 下hạ 求cầu 食thực 鴈nhạn 王vương 墮đọa 網võng 為vị 獵liệp 師sư 所sở 得đắc 餘dư 鴈nhạn 驚kinh 飛phi 徘bồi 徊hồi 不bất 去khứ 時thời 有hữu 一nhất 鴈nhạn 連liên 翻phiên 追truy 隨tùy 不bất 避tị 弓cung 矢thỉ 悲bi 鳴minh 吐thổ 血huyết 晝trú 夜dạ 不bất 息tức 獵liệp 師sư 見kiến 之chi 感cảm 憐lân 其kỳ 義nghĩa 即tức 放phóng 鴈nhạn 王vương 令linh 相tương 隨tùy 去khứ 群quần 鴈nhạn 得đắc 王vương 歡hoan 喜hỷ 迴hồi 繞nhiễu 爾nhĩ 時thời 獵liệp 師sư 具cụ 以dĩ 聞văn 王vương 王vương 感cảm 其kỳ 義nghĩa 斷đoạn 不bất 捕bộ 鴈nhạn
Bấy giờ có một con nhạn chúa dẫn theo 500 chim nhạn bay xuống tìm thức ăn. Chẳng may nhạn chúa sa lưới và bị thợ săn tóm được. Tất cả chim nhạn khác đều bay vòng quanh kinh hãi mà chẳng chịu đi. Lúc ấy chỉ có một con chim nhạn bay theo sát mà chẳng lánh xa cung tên. Suốt ngày đêm không ngừng, nó kêu thảm thiết và đến nỗi thổ huyết. Khi thấy thế, thợ săn cảm động trước tình thâm của nó nên liền thả cho nhạn chúa bay đi. Khi nhạn chúa được thả, bầy nhạn vui mừng và bay vòng rồi đi. Sau đó thợ săn trình tâu hết việc ấy cho vua. Nhà vua cảm động trước tình thâm của nó và từ đó không còn ra lệnh bắt chim nhạn nữa."

佛Phật 告cáo 阿A 闍Xà 貰Thế 王Vương
Đức Phật bảo vua Vị Sanh Oán rằng:

爾nhĩ 時thời 鴈nhạn 王vương 者giả 我ngã 身thân 是thị 也dã 一nhất 鴈nhạn 者giả 阿A 難Nan 是thị 也dã 五ngũ 百bách 群quần 鴈nhạn 今kim 五ngũ 百bách 羅La 漢Hán 是thị 也dã 食thực 鴈nhạn 國quốc 王vương 者giả 今kim 大đại 王vương 是thị 也dã 時thời 獵liệp 師sư 者giả 今kim 調Điều 達Đạt 是thị 也dã 前tiền 世thế 已dĩ 來lai 恒hằng 欲dục 害hại 我ngã 我ngã 以dĩ 大đại 慈từ 之chi 力lực 因nhân 而nhi 得đắc 濟tế 不bất 念niệm 怨oán 惡ác 自tự 致trí 得đắc 佛Phật
"Nhạn chúa thuở ấy chính là tiền thân của Ta. Con chim nhạn với tình thâm là Thị giả Khánh Hỷ. 500 chim nhạn, nay chính là 500 vị Ưng Chân đây vậy. Ông vua thích ăn thịt chim nhạn, nay chính là đại vương. Còn kẻ thợ săn thuở ấy, nay chính là Bhikṣu Thiên Thọ. Từ đời trước cho đến nay, Thiên Thọ luôn muốn hại Ta. Với năng lực đại từ của Ta, ông ấy nhờ đó mà được cứu độ. Ta không nhớ oán thù và tự chứng thành Phật."

佛Phật 說thuyết 是thị 時thời 王vương 及cập 群quần 臣thần 莫mạc 不bất 開khai 解giải
Khi Phật nói lời ấy xong, nhà vua cùng quần thần, không ai là chẳng tỏ ngộ.

塵Trần 垢Cấu 品Phẩm 第đệ 二nhị 十thập 六lục
Phẩm 26: Trần Cấu


昔tích 有hữu 一nhất 人nhân 無vô 有hữu 兄huynh 弟đệ 為vi 小tiểu 兒nhi 時thời 父phụ 母mẫu 憐lân 愛ái 赤xích 心tâm 慺lâu 慺lâu 欲dục 令linh 成thành 就tựu 將tương 詣nghệ 師sư 友hữu 勸khuyến 之chi 書thư 學học 其kỳ 兒nhi 憍kiêu 蹇kiển 永vĩnh 不bất 用dụng 心tâm 朝triêu 受thọ 暮mộ 棄khí 初sơ 不bất 誦tụng 習tập 如như 是thị 積tích 年niên 無vô 所sở 知tri 識thức 父phụ 母mẫu 呼hô 歸quy 令linh 治trị 家gia 業nghiệp 其kỳ 兒nhi 憍kiêu 誕đản 不bất 念niệm 勤cần 力lực 家gia 道đạo 遂toại 窮cùng 眾chúng 事sự 妨phương 廢phế 其kỳ 兒nhi 放phóng 縱túng 無vô 所sở 顧cố 錄lục 糶thiếu 賣mại 家gia 物vật 快khoái 心tâm 恣tứ 意ý 亂loạn 頭đầu 徒đồ 跣tiển 衣y 服phục 不bất 淨tịnh 慳san 貪tham 搪đường 揬đột 不bất 避tị 恥sỉ 辱nhục 愚ngu 癡si 自tự 用dụng 人nhân 所sở 惡ác 賤tiện 國quốc 人nhân 咸hàm 憎tăng 謂vị 之chi 凶hung 惡ác 出xuất 入nhập 行hành 步bộ 無vô 與dữ 語ngữ 者giả 不bất 自tự 知tri 惡ác 反phản 咎cữu 眾chúng 人nhân 上thượng 怨oán 父phụ 母mẫu 次thứ 責trách 師sư 友hữu
Thuở xưa có một thanh niên là con trai một và chẳng có anh em. Lúc còn nhỏ cha mẹ hết mực thương yêu và xem như tánh mạng của họ. Vì muốn mai này đứa bé thành tựu hơn người nên họ đưa tới thầy dạy cho học vấn. Thế nhưng đứa bé này lếu láo và luôn mãi không chịu dụng tâm; sáng học tối quên và đọc rồi cũng chẳng ôn tập. Trải qua nhiều năm như thế mà nó không hiểu biết gì. Sau đó cha mẹ gọi về để quản lý gia nghiệp. Thế nhưng anh ta phóng túng kiêu ngạo và chẳng hề siêng năng làm lụng, nên khiến cho cảnh nhà bắt đầu sa sút và mọi việc tan hoang. Lâu dần anh ta chẳng chút kiêng nể và tùy ý bán đồ vật trong nhà. Anh ta lại buông thả tâm ý, đầu tóc rối ren, đi chân đất, quần áo dơ bẩn, tham lam keo kiệt, và ngu muội cố chấp mà chẳng biết xấu hổ. Ai trông thấy đều khinh bỉ oán ghét và bị mọi người mắng chửi là một kẻ hung ác. Lúc đi ra ngoài hoặc lúc về, không một ai trò chuyện với hắn. Lại chẳng biết mình xấu ác mà ngược lại y còn oán trách mọi người và kể cả cha mẹ. Kế đến anh ta oán trách thầy bạn.

先tiên 祖tổ 神thần 靈linh 不bất 肯khẳng 祐hựu 助trợ 使sử 我ngã 賴lại 帶đái 轗khảm 軻kha 如như 此thử 不bất 如như 事sự 佛Phật 可khả 得đắc 其kỳ 福phước
"Thần linh của tổ tiên đã không chịu bảo hộ nên mới khiến cho mình chẳng chỗ nương tựa và gặp trắc trở như thế. Nếu đã vậy, chi bằng hãy phụng sự Đức Phật thì may ra sẽ được phước."

即tức 到đáo 佛Phật 所sở 為vì 佛Phật 作tác 禮lễ 前tiền 白bạch 佛Phật 言ngôn
Và thế là anh ta liền đến chỗ của Phật, rồi đảnh lễ và ở trước Phật thưa rằng:

佛Phật 道Đạo 寬khoan 弘hoằng 無vô 所sở 不bất 容dung 願nguyện 為vi 弟đệ 子tử 乞khất 蒙mông 聽thính 許hứa
"Phật Đạo hoằng thâm, không gì chẳng dung thọ. Con muốn làm đệ tử của Phật. Cầu xin Ngài cho phép."

佛Phật 告cáo 此thử 人nhân
Đức Phật bảo kẻ ấy rằng:

夫phù 欲dục 求cầu 道Đạo 當đương 行hành 清thanh 淨tịnh 行hành 汝nhữ 齎tê 俗tục 垢cấu 入nhập 我ngã 道Đạo 中trung 唐đường 自tự 去khứ 就tựu 何hà 所sở 長trưởng 益ích 不bất 如như 歸quy 家gia 孝hiếu 事sự 父phụ 母mẫu 誦tụng 習tập 師sư 教giáo 沒một 命mạng 不bất 忘vong 勤cần 修tu 居cư 業nghiệp 富phú 樂lạc 無vô 憂ưu 以dĩ 禮lễ 自tự 將tương 不bất 犯phạm 非phi 宜nghi 沐mộc 浴dục 衣y 服phục 慎thận 於ư 言ngôn 行hành 執chấp 心tâm 守thủ 一nhất 所sở 作tác 事sự 辦biện 敏mẫn 行hành 精tinh 修tu 人nhân 所sở 歎thán 慕mộ 如như 此thử 之chi 行hành 乃nãi 可khả 為vi 道Đạo 耳nhĩ
"Phàm ai muốn cầu Đạo thì hành vi phải thanh tịnh. Anh mang cấu uế của trần tục vào trong Đạo của Ta thì chỉ uổng phí sự tu hành, thử hỏi có ích lợi gì? Chẳng bằng như trở về nhà hiếu thảo cha mẹ, ôn tụng lời thầy dạy và suốt đời chẳng quên. Hãy chăm chỉ làm ăn, sống vui vẻ không sầu lo, biết phép tắc và chẳng vi phạm lễ nghi. Hãy tắm rửa, mặc y phục tinh sạch, thận trọng lời nói, giữ tâm chuyên nhất, việc làm đến nơi đến chốn, và cần mẫn tu tập thì sẽ được người quý mến. Nếu làm được như thế thì mới có thể học Đạo."

於ư 是thị 世Thế 尊Tôn 即tức 說thuyết 偈kệ 言ngôn
Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:

不bất 誦tụng 為vi 言ngôn 垢cấu
不bất 勤cần 為vi 家gia 垢cấu

不bất 嚴nghiêm 為vi 色sắc 垢cấu

放phóng 逸dật 為vi 事sự 垢cấu


"Chẳng tụng lời sẽ bẩn
Chẳng siêng nhà sẽ dơ
Chẳng nghiêm sắc sẽ cấu
Buông lung việc sẽ uế

慳san 為vi 惠huệ 施thí 垢cấu
不bất 善thiện 為vi 行hành 垢cấu

今kim 世thế 亦diệc 後hậu 世thế

惡ác 法pháp 為vi 常thường 垢cấu


Keo khiến huệ thí dơ
Ác khiến hành vi bẩn
Hiện đời cùng vị lai
Pháp ác luôn cấu uế

垢cấu 中trung 之chi 垢cấu
莫mạc 甚thậm 於ư 癡si

學học 當đương 捨xả 此thử

比Bỉ 丘Khâu 無vô 垢cấu


Dơ bẩn trong dơ bẩn
Chẳng gì bằng si mê
Tu học nên trừ ác
Bhikṣu không cấu uế"

其kỳ 人nhân 聞văn 偈kệ 自tự 知tri 憍kiêu 癡si 即tức 承thừa 佛Phật 教giáo 歡hoan 喜hỷ 還hoàn 歸quy 思tư 惟duy 偈kệ 義nghĩa 改cải 悔hối 自tự 新tân 孝hiếu 事sự 父phụ 母mẫu 尊tôn 敬kính 師sư 長trưởng 誦tụng 習tập 經Kinh 道Đạo 勤cần 修tu 居cư 業nghiệp 奉phụng 戒giới 自tự 攝nhiếp 非phi 道đạo 不bất 行hành 宗tông 族tộc 稱xưng 孝hiếu 鄉hương 黨đảng 稱xưng 悌đễ 善thiện 名danh 遐hà 布bố 國quốc 內nội 稱xưng 賢hiền
Khi nghe kệ, người ấy tự biết sự kiêu mạn và si mê của mình, liền vâng lời Phật dạy và vui mừng trở về. Sau đó anh ta tư duy về ý nghĩa của bài kệ, rồi sửa đổi tâm tánh, hiếu thảo cha mẹ, tôn kính sư trưởng, chăm chỉ làm ăn, học tập Kinh Pháp, nhiếp tâm giữ giới, và không làm điều sai quấy. Một thời gian sau anh ta được thân quyến và dân làng khen ngợi là đứa con hiếu thuận. Từ đó tiếng thơm hiền đức của anh ta lan xa đến khắp cả nước.

三tam 年niên 之chi 後hậu 還hoàn 至chí 佛Phật 所sở 五ngũ 體thể 作tác 禮lễ 懇khẩn 惻trắc 自tự 陳trần
Ba năm sau, người ấy trở lại chỗ của Phật, đầu đảnh lễ sát đất, và thành khẩn bày tỏ rằng:

尊tôn 敬kính 至Chí 真Chân 得đắc 全toàn 形hình 骸hài 棄khí 惡ác 為vi 善thiện 上thượng 下hạ 蒙mông 慶khánh 願nguyện 垂thùy 大đại 慈từ 接tiếp 度độ 為vi 道Đạo
"Thưa Như Lai tôn kính! Con nay đã hoàn toàn sửa đổi, bỏ ác hướng thiện và khiến thân tộc nhờ ơn lành. Xin Thế Tôn rủ lòng đại từ mà cho phép con học Đạo."

佛Phật 言ngôn
Đức Phật bảo:

善thiện 哉tai
"Lành thay!"

鬚tu 髮phát 尋tầm 落lạc 即tức 成thành 沙Sa 門Môn 內nội 思tư 止Chỉ 觀Quán 四Tứ 諦Đế 正Chánh 道Đạo 精tinh 進tấn 日nhật 登đăng 得đắc 羅La 漢Hán 道Đạo
Lúc đó râu tóc của người ấy tự rụng và liền trở thành Đạo Nhân. Khi đã tư duy và tu học Chỉ Quán, Bốn Thánh Đế, và Tám Chánh Đạo, ngài đắc Đạo Ưng Chân.

奉Phụng 持Trì 品Phẩm 第đệ 二nhị 十thập 七thất
Phẩm 27: Phụng Trì


昔tích 有hữu 長trưởng 老lão 婆Bà 羅La 門Môn 名danh 薩Tát 遮Già 尼Ni 犍Kiền 才tài 明minh 多đa 智trí 國quốc 中trung 第đệ 一nhất 有hữu 五ngũ 百bách 弟đệ 子tử 貢cống 高cao 自tự 大đại 不bất 顧cố 天thiên 下hạ 以dĩ 鐵thiết 鍱diệp 鍱diệp 腹phúc 人nhân 問vấn 其kỳ 故cố
Thuở xưa có một trưởng lão Phạm Chí tên là Ly Hệ, được xem là người thông minh đa trí đệ nhất trong nước. Ông có 500 đệ tử, tánh tình cao ngạo tự đại, và khinh thường mọi người trong thiên hạ. Ông lại dùng những miếng lá bằng đồng và sắt mà quấn vào bụng. Khi thấy thế nên mọi người mới hỏi.

答đáp 曰viết
Ông đáp rằng:

恐khủng 智trí 溢dật 出xuất 故cố 也dã
"Tôi sợ trí tuệ sẽ tràn ra ngoài."

聞văn 佛Phật 出xuất 世thế 道Đạo 化hóa 明minh 達đạt 心tâm 懷hoài 妬đố 嫉tật 寤ngụ 寐mị 不bất 安an
Khi biết Phật đã xuất hiện ở thế gian và tuyên dương Đạo Pháp nhiệm mầu, ông sanh lòng đố kỵ và ngủ thức chẳng an.

語ngứ 諸chư 弟đệ 子tử
Ông bảo các đệ tử rằng:

吾ngô 聞văn 瞿Cù 曇Đàm 沙Sa 門Môn 自tự 稱xưng 為vi 佛Phật 今kim 當đương 往vãng 問vấn 深thâm 妙diệu 之chi 事sự 令linh 其kỳ 心tâm 悸quý 不bất 知tri 所sở 陳trần
"Ta nghe Đạo sư Năng Nhân tự xưng là Phật. Ta bây giờ muốn đến vặn hỏi những việc vi diệu sâu xa để khiến lòng ông ấy bối rối và chẳng biết phải trả lời ra sao."

即tức 與dữ 弟đệ 子tử 往vãng 到đáo 祇Kỳ 洹Hoàn 列liệt 住trụ 門môn 外ngoại 遙diêu 見kiến 世Thế 尊Tôn 威uy 光quang 赫hách 奕dịch 如như 日nhật 初sơ 出xuất 五ngũ 情tình 騰đằng 踊dũng 喜hỷ 懼cụ 交giao 錯thác 於ư 是thị 徑kính 前tiền 為vì 佛Phật 作tác 禮lễ 佛Phật 命mệnh 就tựu 座tòa
Và thế là ông liền dẫn đệ tử cùng đi đến Tinh xá Kỳ Viên và đứng ngay thẳng ở trước cổng. Khi từ nơi xa trông thấy quang minh sáng chói của Thế Tôn như mặt trời mọc, trong lòng hân hoan và ông vừa mừng vừa sợ. Ông liền tiến về phía trước và đảnh lễ Phật. Sau đó Đức Phật bảo ông hãy ngồi.

坐tọa 訖ngật 尼Ni 犍Kiền 問vấn 佛Phật 言ngôn
Khi đã ngồi xuống, Phạm chí Ly Hệ hỏi Phật rằng:

何hà 謂vị 為vi 道Đạo 何hà 謂vị 為vi 智trí 何hà 謂vị 為vi 長trưởng 老lão 何hà 謂vị 為vi 端đoan 正chánh 何hà 謂vị 為vi 沙Sa 門Môn 何hà 謂vị 為vi 比Bỉ 丘Khâu 何hà 謂vị 為vi 仁nhân 明minh 何hà 謂vị 為vi 有hữu 道Đạo 何hà 謂vị 為vi 奉phụng 戒giới
"- Sao gọi là Đạo?

- Sao gọi là trí tuệ?

- Sao gọi là trưởng lão?

- Sao gọi là đoan chánh?

- Sao gọi là Đạo Nhân?

- Sao gọi là Bhikṣu?

- Sao gọi là hiền minh?

- Sao gọi là đắc Đạo?

- Sao gọi là trì Pháp?


若nhược 能năng 解giải 答đáp 願nguyện 為vi 弟đệ 子tử
Nếu Ngài có thể giải đáp, tôi xin làm đệ tử."

於ư 是thị 世Thế 尊Tôn 觀quán 其kỳ 所sở 應ứng 以dĩ 偈kệ 答đáp 言ngôn
Lúc bấy giờ Thế Tôn quán sát nhân duyên mà dùng kệ đáp rằng:

常thường 愍mẫn 好hiếu 學học
正chánh 心tâm 以dĩ 行hành

唯duy 懷hoài 寶bảo 慧tuệ

是thị 謂vị 為vì 道Đạo


"Tu học luôn quý mến
Chánh tâm dùng tu hành
Ôm ấp trí tuệ báu
Đó là người vì Đạo

所sở 謂vị 智trí 者giả
不bất 必tất 辯biện 言ngôn

無vô 恐khủng 無vô 懼cụ

守thủ 善thiện 為vi 智trí


Gọi là bậc trí tuệ
Không phải lời khôn khéo
Chẳng sợ chẳng kinh hoàng
Tu thiện là bậc trí

所sở 謂vị 老lão 者giả
不bất 以dĩ 年niên 耆kỳ

形hình 熟thục 髮phát 白bạch

憃xuẩn 愚ngu 而nhi 已dĩ


Gọi là bậc trưởng lão
Không phải tuổi tác cao
Già nua tóc bạc trắng
Ngu si chẳng biết tội

謂vị 懷hoài 諦đế 法Pháp
順thuận 調điều 慈từ 仁nhân

明minh 達đạt 清thanh 潔khiết

是thị 為vi 長trưởng 老lão


Chánh Pháp luôn ôm ấp
Nhu hòa lòng từ bi
Hiểu rộng tâm thanh tịnh
Đó là bậc trưởng lão

所sở 謂vị 端đoan 正chánh
非phi 色sắc 如như 華hoa

貪tham 嫉tật 虛hư 飾sức

言ngôn 行hành 有hữu 違vi


Gọi là người đoan chánh
Không phải đẹp như hoa
Keo kiệt lòng ganh ghét
Lời nói có lỗi lầm

謂vị 能năng 捨xả 惡ác
根căn 原nguyên 已dĩ 斷đoạn

慧tuệ 而nhi 無vô 恚khuể

是thị 謂vị 端đoan 正chánh


Ai khéo lìa việc ác
Căn nguyên đã đoạn trừ
Thông tuệ chẳng sân hận
Đó là người đoan chánh

所sở 謂vị 沙Sa 門Môn
不bất 必tất 除trừ 髮phát

妄vọng 語ngữ 貪tham 取thủ

有hữu 欲dục 如như 凡phàm


Gọi là bậc Đạo Nhân
Không phải cạo râu tóc
Nói dối nhiều tham ái
Tham dục như phàm phu

謂vị 能năng 止chỉ 惡ác
恢khôi 廓khuếch 弘hoằng 道Đạo

息tức 心tâm 滅diệt 意ý

是thị 謂vị 沙Sa 門Môn


Ai khéo ngưng việc ác
Đạo Pháp rộng tuyên dương
Tâm an vọng tưởng diệt
Đó là bậc Đạo Nhân

所sở 謂vị 比Bỉ 丘Khâu
非phi 持trì 乞khất 食thực

邪tà 行hành 望vọng 彼bỉ

求cầu 名danh 而nhi 已dĩ


Gọi là bậc Bhikṣu
Không phải đi khất thực
Làm ác kỳ vọng người
Cầu lợi cầu tiếng tăm

謂vị 捨xả 罪tội 業nghiệp
淨tịnh 修tu 梵Phạm 行hành

慧tuệ 能năng 破phá 惡ác

是thị 為vi 比Bỉ 丘Khâu


Ai khéo biết tội phước
Luôn tu thanh tịnh hành
Dùng tuệ diệt trừ ác
Đó gọi là Bhikṣu

所sở 謂vị 仁nhân 明minh
非phi 口khẩu 所sở 言ngôn

用dụng 心tâm 不bất 精tinh

外ngoại 順thuận 而nhi 已dĩ


Gọi là bậc hiền minh
Không phải giữ lặng thinh
Nội tâm chẳng thanh tịnh
Ngoại thân nhiễm bụi trần

謂vị 心tâm 無vô 為vi
內nội 行hành 清thanh 虛hư

此thử 彼bỉ 寂tịch 滅diệt

是thị 為vi 仁nhân 明minh


Bất nhiễm tâm vô vi
Thanh tịnh như hư không
Người ấy được tịch diệt
Đó là bậc hiền minh

所sở 謂vị 有hữu 道Đạo
非phi 救cứu 一nhất 物vật

普phổ 濟tế 天thiên 下hạ

無vô 害hại 為vi 道Đạo


Gọi là bậc đắc Đạo
Không phải chỉ cứu một
Rộng độ khắp chúng sanh
Vô hại là hành Đạo

奉phụng 持trì 法Pháp 者giả
不bất 以dĩ 多đa 言ngôn

雖tuy 素tố 少thiểu 聞văn

身thân 依y 法Pháp 行hành

守thủ 道Đạo 不bất 忘vong

是thị 為vi 奉phụng 法Pháp


Gọi là bậc trì Pháp
Không phải đọc tụng nhiều
Dù chỉ nghe ít thôi
Y Pháp thân hành trì
Giữ Đạo chẳng lãng quên
Đó là người trì Pháp"

薩Tát 遮Già 尼Ni 犍Kiền 及cập 五ngũ 百bách 弟đệ 子tử 聞văn 佛Phật 此thử 偈kệ 歡hoan 喜hỷ 開khai 解giải 棄khí 捐quyên 貢cống 高cao 皆giai 作tác 沙Sa 門Môn 尼Ni 乾Kiền 一nhất 人nhân 發phát 菩Bồ 薩Tát 心tâm 五ngũ 百bách 弟đệ 子tử 皆giai 得đắc 阿A 羅La 漢Hán 道Đạo
Khi nghe những bài kệ của Phật, Phạm chí Ly Hệ và 500 đệ tử vui mừng tỏ ngộ. Họ trừ bỏ cao ngạo và xin làm Đạo Nhân. Duy chỉ một mình Phạm chí Ly Hệ phát khởi Đạo tâm của Bồ-tát, còn 500 đệ tử đều đắc Đạo Ưng Chân.

道Đạo 行Hành 品Phẩm 第đệ 二nhị 十thập 八bát
Phẩm 28: Đạo Hành


昔tích 有hữu 婆Bà 羅La 門Môn 年niên 少thiếu 出xuất 家gia 學học 道Đạo 至chí 年niên 六lục 十thập 不bất 能năng 得đắc 道Đạo 婆Bà 羅La 門Môn 法pháp 六lục 十thập 不bất 得đắc 道Đạo 然nhiên 後hậu 歸quy 家gia 娶thú 婦phụ 為vi 居cư 生sanh 得đắc 一nhất 男nam 端đoan 正chánh 可khả 愛ái 至chí 年niên 七thất 歲tuế 書thư 學học 聰thông 了liễu 才tài 辯biện 出xuất 口khẩu 有hữu 踰du 人nhân 之chi 操thao 卒thốt 得đắc 重trọng 病bệnh 一nhất 宿túc 命mạng 終chung 梵Phạm 志Chí 憐lân 惜tích 不bất 能năng 自tự 勝thắng 伏phục 其kỳ 屍thi 上thượng 氣khí 絕tuyệt 復phục 蘇tô 親thân 族tộc 諫gián 喻dụ 強cưỡng 奪đoạt 殯tấn 殮liễm 埋mai 著trước 城thành 外ngoại
Thuở xưa có một Phạm Chí xuất gia học Đạo từ nhỏ và mãi đến 60 tuổi mà vẫn không đắc Đạo. Theo pháp của Phạm Chí, nếu đến 60 tuổi mà vẫn không đắc Đạo thì trở về nhà lấy vợ lập gia đình. Sau đó, vợ ông sanh được một đứa con trai rất tuấn tú đáng yêu. Lên đến bảy tuổi, đứa bé tinh thông học vấn, biện tài xuất chúng, và tài giỏi hơn mọi người. Một hôm đứa bé lâm trọng bệnh và hốt nhiên mạng chung. Phạm Chí thương nhớ khôn nguôi và chẳng thể nào tự kiềm chế cõi lòng. Ông nằm ôm thi thể của con, bi thương đến tắt thở đến một hồi lâu mới tỉnh lại. Lúc ấy thân tộc can gián và buộc phải mang xác con ông đi mai táng ở ngoài thành.

梵Phạm 志Chí 自tự 念niệm
Bấy giờ Phạm Chí tự nghĩ:

我ngã 今kim 啼đề 哭khốc 計kế 無vô 所sở 益ích 不bất 如như 往vãng 至chí 閻Diêm 羅La 王Vương 所sở 乞khất 索sách 兒nhi 命mạng
"Giờ ta có khóc lóc mãi thì cũng vô ích. Chi bằng hãy đến chỗ của Diêm Vương để xin lại mạng sống của con mình."

於ư 是thị 梵Phạm 志Chí 沐mộc 浴dục 齋trai 戒giới 齎tê 持trì 華hoa 香hương 發phát 舍xá 而nhi 去khứ
Và thế là Phạm Chí tắm rửa thân thể, ăn chay trì giới, rồi mang theo hương hoa và đi ra khỏi nhà.

所sở 在tại 問vấn 人nhân
Gặp ai ông cũng hỏi rằng:

閻Diêm 羅La 王Vương 所sở 治trị 處xứ 為vi 在tại 何hà 許hứa
"Xin hỏi có biết nơi xứ của Diêm Vương ở đâu không?"

展triển 轉chuyển 前tiền 行hành 行hành 數sổ 千thiên 里lý 至chí 深thâm 山sơn 中trung 見kiến 諸chư 得đắc 道Đạo 梵Phạm 志Chí 復phục 問vấn 如như 前tiền
Lần lần đi về phía trước khoảng vài ngàn dặm, ông tiến vào rừng sâu và thấy các Phạm Chí đắc Đạo, rồi cũng lại hỏi như trên.

諸chư 梵Phạm 志Chí 問vấn 曰viết
Các Phạm Chí bảo rằng:

卿khanh 問vấn 閻Diêm 羅La 王Vương 所sở 治trị 處xứ 欲dục 求cầu 何hà 等đẳng
"Ông hỏi nơi xứ của Diêm Vương để làm gì?"

答đáp 言ngôn
Đáp rằng:

我ngã 有hữu 一nhất 子tử 辯biện 慧tuệ 過quá 人nhân 近cận 日nhật 卒thốt 亡vong 悲bi 窮cùng 懊áo 惱não 不bất 能năng 自tự 解giải 欲dục 至chí 閻Diêm 羅La 王Vương 所sở 乞khất 索sách 兒nhi 命mạng 還hoàn 將tương 歸quy 家gia 養dưỡng 以dĩ 備bị 老lão
"Tôi có một đứa con thông minh hơn người và nó vừa mới chết gần đây. Tôi đau khổ tột cùng mà chẳng thể nào ngăn được. Tôi muốn đến chỗ của Diêm Vương để xin lại tánh mạng của đứa bé, rồi dẫn nó về nhà nuôi dưỡng để nhờ cậy lúc tuổi già."

諸chư 梵Phạm 志Chí 等đẳng 愍mẫn 其kỳ 愚ngu 癡si 即tức 告cáo 之chi 曰viết
Các Phạm Chí thương cảm cho sự ngu si của ông nên liền bảo rằng:

閻Diêm 羅La 王Vương 所sở 治trị 處xứ 非phi 是thị 生sanh 人nhân 可khả 得đắc 到đáo 也dã 當đương 視thị 卿khanh 方phương 宜nghi 從tùng 此thử 西tây 行hành 四tứ 百bách 餘dư 里lý 有hữu 大đại 川xuyên 其kỳ 中trung 有hữu 城thành 此thử 是thị 諸chư 天thiên 神thần 案án 行hành 世thế 間gian 停đình 宿túc 之chi 城thành 閻Diêm 羅La 王Vương 常thường 以dĩ 月nguyệt 八bát 日nhật 案án 行hành 必tất 過quá 此thử 城thành 卿khanh 持trì 齋trai 戒giới 往vãng 必tất 見kiến 之chi
"Chỗ ở của Diêm Vương không phải là nơi mà người sống có thể đến. Tuy nhiên chúng tôi sẽ chỉ cho ông phương xứ. Từ đây đi về hướng tây hơn 400 dặm thì sẽ gặp một dòng nước và trong ấy có một thành quách. Đây là chốn dừng chân qua đêm của chư thiên thần đi tuần tra ở thế gian. Diêm Vương thường vào mùng tám của mỗi tháng sẽ đi tuần tra và chắc chắn ghé qua thành này. Ông hãy ăn chay trì giới và đến đó thì tất sẽ được gặp."

梵Phạm 志Chí 歡hoan 喜hỷ 奉phụng 教giáo 而nhi 去khứ 到đáo 其kỳ 川xuyên 中trung 見kiến 好hảo 城thành 郭quách 宮cung 殿điện 屋ốc 宇vũ 如như 忉Đao 利Lợi 天Thiên 梵Phạm 志Chí 詣nghệ 門môn 燒thiêu 香hương 翹kiều 脚cước 咒chú 願nguyện 求cầu 見kiến 閻Diêm 羅La 王Vương 王vương 敕sắc 門môn 人nhân 問vấn 之chi
Phạm Chí vui mừng và vâng lời ra đi. Ông đến trong dòng nước và thấy một thành quách nguy nga; cung điện, phòng ốc và mái hiên như ở trời Tam Thập Tam. Phạm Chí đến cổng thành, quỳ gối thắp hương, và cầu nguyện xin gặp Diêm Vương. Lúc ấy Diêm Vương sai kẻ gác cổng ra hỏi.

梵Phạm 志Chí 啟khải 言ngôn
Phạm Chí thưa rằng:

晚vãn 生sanh 一nhất 男nam 欲dục 以dĩ 備bị 老lão 養dưỡng 育dục 七thất 歲tuế 近cận 日nhật 命mạng 終chung 唯duy 願nguyện 大đại 王vương 垂thùy 恩ân 布bố 施thí 還hoàn 我ngã 兒nhi 命mạng
"Đến tuổi xế chiều tôi mới sanh được một đứa con trai và muốn nuôi dưỡng để cậy trông lúc tuổi già. Ngờ đâu nuôi con khôn lớn được bảy tuổi thì gần đây nó đã qua đời. Cầu mong đại vương hãy rủ lòng thương xót mà bố thí lại tánh mạng của con tôi."

閻Diêm 羅La 王Vương 言ngôn
Diêm Vương nói rằng:

大đại 善thiện 卿khanh 兒nhi 今kim 在tại 東đông 園viên 中trung 戲hí 自tự 往vãng 將tương 去khứ
"Tốt lắm! Con ông hiện giờ đang chơi trong khu vườn phía đông. Ông hãy tự đến đó dẫn nó về."

梵Phạm 志Chí 即tức 往vãng 見kiến 兒nhi 與dữ 諸chư 小tiểu 兒nhi 共cộng 戲hí
Phạm Chí lập tức đến đó và thấy con mình đang nô đùa cùng với những đứa trẻ khác.

即tức 前tiền 抱bão 之chi 向hướng 之chi 啼đề 泣khấp 曰viết
Ông liền đến trước bồng con lên và nhìn nó mà khóc than rằng:

我ngã 晝trú 夜dạ 念niệm 汝nhữ 食thực 寐mị 不bất 甘cam 汝nhữ 寧ninh 念niệm 父phụ 母mẫu 辛tân 苦khổ 以dĩ 不phủ
"Cha ngày đêm nhớ con, ăn ngủ chẳng ngon. Con có biết nỗi khổ nhọc của cha mẹ chăng?"

小tiểu 兒nhi 驚kinh 喚hoán 逆nghịch 呵ha 之chi 曰viết
Đứa trẻ sợ hãi la lên và trách mắng rằng:

癡si 騃ngãi 老lão 翁ông 不bất 達đạt 道Đạo 理lý 寄ký 住trụ 須tu 臾du 名danh 之chi 為vi 子tử 勿vật 妄vọng 多đa 言ngôn 不bất 如như 早tảo 去khứ 今kim 我ngã 此thử 間gian 自tự 有hữu 父phụ 母mẫu 邂giải 逅cấu 之chi 間gian 唐đường 自tự 抱bão 乎hồ
"Cái ông già ngu ngốc chẳng biết lý lẽ! Tôi chỉ tạm thoáng sanh làm con trai của ông thôi. Ông đừng có nhiều lời và hãy sớm rời khỏi. Giờ ở đây tôi tự có cha mẹ. Nay không hẹn mà gặp và ông có bồng bế tôi thì cũng vô ích."

梵Phạm 志Chí 悵trướng 然nhiên 悲bi 泣khấp 而nhi 去khứ
Phạm Chí buồn bã và ngậm ngùi bỏ đi.

即tức 自tự 念niệm 言ngôn
Sau đó ông tự nghĩ thầm:

我ngã 聞văn 瞿Cù 曇Đàm 沙Sa 門Môn 知tri 人nhân 魂hồn 神thần 變biến 化hóa 之chi 道đạo 當đương 往vãng 問vấn 之chi
"Ta từng nghe rằng Đạo sư Năng Nhân có thể biết được thần hồn biến hóa của người khác. Ta hãy đến hỏi Ngài xem."

於ư 是thị 梵Phạm 志Chí 即tức 還hoàn 求cầu 至chí 佛Phật 所sở 時thời 佛Phật 在tại 舍Xá 衛Vệ 祇Kỳ 洹Hoàn 為vì 大đại 眾chúng 說thuyết 法Pháp
Lúc ấy Phạm Chí liền trở về và tìm đến chỗ của Phật. Bấy giờ Đức Phật thuyết Pháp cho đại chúng ở Tinh xá Kỳ Viên gần thành Phong Đức.

梵Phạm 志Chí 見kiến 佛Phật 稽khể 首thủ 作tác 禮lễ 具cụ 以dĩ 本bổn 末mạt 向hướng 佛Phật 陳trần 之chi
Khi trông thấy Phật, Phạm Chí cúi đầu đảnh lễ và hướng về Đức Phật mà kể rõ gốc ngọn của sự tình:

實thật 是thị 我ngã 兒nhi 不bất 肯khẳng 見kiến 認nhận 反phản 謂vị 我ngã 為vi 癡si 騃ngãi 老lão 翁ông 寄ký 住trụ 須tu 臾du 認nhận 我ngã 為vi 子tử 永vĩnh 無vô 父phụ 子tử 之chi 情tình 何hà 緣duyên 乃nãi 爾nhĩ
"[Bạch Thế Tôn!] Nó đích thật là con trai của con. Ấy mà nó chẳng chịu nhận. Nó còn bảo ngược con là ông lão ngu si và chỉ tạm thoáng sanh làm con trai của con thôi. Nó hoàn toàn chẳng có chút ân tình của phụ tử. Sao lại như thế?"

佛Phật 告cáo 梵Phạm 志Chí
Phật bảo Phạm Chí:

汝nhữ 實thật 愚ngu 癡si 人nhân 死tử 神thần 去khứ 便tiện 更cánh 受thọ 形hình 父phụ 母mẫu 妻thê 子tử 因nhân 緣duyên 會hội 居cư 譬thí 如như 寄ký 客khách 起khởi 則tắc 離ly 散tán 愚ngu 迷mê 縛phược 著trước 計kế 為vi 己kỷ 有hữu 憂ưu 悲bi 苦khổ 惱não 不bất 識thức 根căn 本bổn 沈trầm 溺nịch 生sanh 死tử 未vị 央ương 休hưu 息tức 唯duy 有hữu 慧tuệ 者giả 不bất 貪tham 恩ân 愛ái 覺giác 苦khổ 捨xả 習tập 勤cần 修tu 經Kinh 戒giới 滅diệt 除trừ 識thức 想tưởng 生sanh 死tử 得đắc 盡tận
"Ông quả thật ngu muội. Người chết thì thần thức lìa khỏi và lại thọ sanh. Cha mẹ vợ con chỉ là nhân duyên hội tụ. Đây ví như khách ở tạm rồi bỏ đi. Kẻ ngu mê chấp trước mà cho là của mình nên phải chuốc lấy ưu sầu khổ não. Phàm phu chẳng biết căn nguyên, cứ chìm đắm trong sanh tử mà không hề ngừng nghỉ. Duy chỉ có người trí chẳng vướng ái ân, giác ngộ thống khổ, xả bỏ tập khí, siêng tụng Kinh trì giới, và diệt trừ vọng tưởng thì mới chấm dứt sanh tử."

於ư 是thị 世Thế 尊Tôn 即tức 說thuyết 偈kệ 言ngôn
Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:

人nhân 榮vinh 妻thê 子tử
不bất 觀quán 病bệnh 法pháp

死tử 命mạng 卒thốt 至chí

如như 水thủy 湍thoan 驟sậu


"Người đời nuôi vợ con
Chẳng quán lẽ vô thường
Cái chết bỗng chợt đến
Ví như nước chảy xiết

父phụ 子tử 不bất 救cứu
餘dư 親thân 何hà 望vọng

命mạng 盡tận 怙hộ 親thân

如như 盲manh 守thủ 錠đĩnh


Cha con chẳng thể cứu
Họ hàng hy vọng gì?
Mạng hết cậy quyến thuộc
Như mù cầm đèn sáng

慧tuệ 解giải 是thị 意ý
可khả 修tu 經Kinh 戒giới

仂lặc 行hành 度độ 世thế

一nhất 切thiết 除trừ 苦khổ


Bậc trí hiểu ý trên
Kinh giới hãy tu trì
Siêng hành vượt thế gian
Diệt trừ tất cả khổ

遠viễn 離ly 諸chư 淵uyên
如như 風phong 卻khước 雲vân

已dĩ 滅diệt 思tư 想tưởng

是thị 為vi 知tri 見kiến


Lìa xa các vực thẳm
Như gió thổi tan mây
Đã diệt tư tưởng tà
Đó là chánh tri kiến

智trí 為vi 世thế 長trưởng
憺đam 樂lạc 無vô 為vi

如như 受thọ 正chánh 教giáo

生sanh 死tử 得đắc 盡tận


Tuệ là báu thế gian
An lạc chứng vô vi
Ai biết thọ chánh giáo
Vĩnh đoạn sanh già chết"

梵Phạm 志Chí 聞văn 偈kệ 㸌hoát 然nhiên 意ý 解giải 知tri 命mạng 無vô 常thường 妻thê 子tử 如như 客khách 稽khể 首thủ 委ủy 質chất 願nguyện 為vi 沙Sa 門Môn
Khi nghe kệ xong, Phạm Chí hoát nhiên tỏ ngộ, biết thọ mạng vô thường và vợ con như khách trọ. Ông liền cúi đầu cung kính và xin làm Đạo Nhân.

佛Phật 言ngôn
Đức Phật bảo:

善thiện 哉tai
"Lành thay!"

鬚tu 髮phát 自tự 落lạc 法Pháp 衣y 在tại 身thân 即tức 成thành 比Bỉ 丘Khâu 思tư 惟duy 偈kệ 義nghĩa 滅diệt 愛ái 斷đoạn 想tưởng 即tức 於ư 座tòa 上thượng 得đắc 阿A 羅La 漢Hán 道Đạo
Lúc đó râu tóc của Phạm Chí tự rụng và liền trở thành Bhikṣu. Sau đó ngài tư duy về ý nghĩa của những bài kệ, đoạn diệt niệm tưởng ái ân và liền đắc Đạo Ưng Chân ngay tại chỗ ngồi.

廣Quảng 衍Diễn 品Phẩm 第đệ 二nhị 十thập 九cửu
Phẩm 29: Quảng Thuyết


昔tích 佛Phật 在tại 舍Xá 衛Vệ 國Quốc 說thuyết 法Pháp 教giáo 化hóa 天thiên 龍long 鬼quỷ 神thần 帝đế 王vương 人nhân 民dân 三tam 時thời 往vãng 聽thính
Thuở xưa Đức Phật thuyết Pháp giáo hóa chúng sanh ở thành Phong Đức. Trời rồng quỷ thần, quốc vương và nhân dân ở ba thời mỗi ngày đều đến nghe Pháp.

彼bỉ 時thời 國quốc 王vương 名danh 波Ba 斯Tư 匿Nặc 為vi 人nhân 憍kiêu 慢mạn 放phóng 恣tứ 情tình 欲dục 目mục 惑hoặc 於ư 色sắc 耳nhĩ 亂loạn 於ư 聲thanh 鼻tị 著trước 馨hinh 香hương 口khẩu 恣tứ 五ngũ 味vị 身thân 受thọ 細tế 滑hoạt 食thực 飲ẩm 極cực 美mỹ 初sơ 無vô 厭yếm 足túc 食thực 遂toại 進tiến 多đa 恒hằng 苦khổ 飢cơ 虛hư 厨trù 膳thiện 不bất 廢phế 以dĩ 食thực 為vi 常thường 身thân 體thể 肥phì 盛thịnh 乘thừa 輿dư 不bất 勝thắng 臥ngọa 起khởi 呼hô 吸hấp 但đãn 苦khổ 短đoản 氣khí 氣khí 閉bế 息tức 絕tuyệt 經kinh 時thời 驚kinh 覺giác 坐tọa 臥ngọa 呻thân 吟ngâm 恒hằng 苦khổ 身thân 重trọng 不bất 能năng 轉chuyển 側trắc 以dĩ 身thân 為vi 患hoạn 便tiện 敕sắc 嚴nghiêm 駕giá 往vãng 到đáo 佛Phật 所sở 侍thị 者giả 扶phù 持trì 問vấn 訊tấn
Bấy giờ có một ông vua tên là Thắng Quân, là người kiêu mạn, say đắm ái dục, mắt nhiễm trước sắc, tai loạn nơi tiếng, mũi đắm hương thơm, miệng ưa năm vị, và thân khoái trơn mịn. Nhà vua ăn uống cao lương mỹ vị mà chẳng hề biết nhàm đủ, càng ngày ăn càng nhiều và luôn cảm thấy rất đói. Thế nên quan ngự trù phải làm việc liên tục để dâng lên thức ăn. Dần dần thân thể của nhà vua trở nên béo phì, chẳng thể lên xe cưỡi ngựa, thở ra hít vào trong lúc nằm hay lúc thức dậy rất mệt nhọc và có lúc hơi thở bị đứt quãng đến một hồi mới tỉnh dậy. Lúc nằm hay ngồi đều bị đau nhức, thân thể ì ạch và chẳng thể cử động. Khi ấy nhà vua mới ngộ ra rằng thân này là tai họa, nên liền ra lệnh chuẩn bị xe ngựa để đến chỗ của Phật. Lúc đến nơi, kẻ hầu phải phụ giúp nhà vua đứng lên để thăm hỏi Thế Tôn.

卻khước 坐tọa 叉xoa 手thủ 白bạch 佛Phật 言ngôn
Sau đó nhà vua lui xuống ngồi qua một bên, chắp tay và thưa với Phật rằng:

世Thế 尊Tôn 違vi 遠viễn 侍thị 覲cận 諮tư 受thọ 無vô 階giai 不bất 知tri 何hà 罪tội 身thân 為vi 自tự 肥phì 不bất 能năng 自tự 覺giác 何hà 故cố 使sử 爾nhĩ 每mỗi 自tự 患hoạn 之chi 是thị 以dĩ 違vi 替thế 不bất 數sác 禮lễ 覲cận
"[Thưa Thế Tôn!] Lâu rồi con không đến thân cận Ngài và thưa hỏi về giáo Pháp. Nay con chẳng biết đã tạo nghiệp tội gì mà thân thể ngày càng béo phì. Con chẳng biết nguyên nhân gì mà khiến con khổ sở như thế. Bởi vậy nên cũng đã lâu rồi con không đến đảnh lễ và thân cận Thế Tôn."

佛Phật 告cáo 大đại 王vương
Phật bảo đại vương:

人nhân 有hữu 五ngũ 事sự 令linh 人nhân 常thường 肥phì
"Có năm việc sẽ khiến con người tăng béo phì.

一nhất 者giả 數sác 食thực 二nhị 者giả 喜hỷ 眠miên 三tam 者giả 憍kiêu 樂lạc 四tứ 者giả 無vô 愁sầu 五ngũ 者giả 無vô 事sự
1. luôn ăn uống
2. thích ngủ nghỉ
3. ưa phóng túng
4. chẳng sầu lo
5. quá nhàn rỗi

是thị 為vi 五ngũ 事sự 喜hỷ 令linh 人nhân 肥phì 若nhược 欲dục 不bất 肥phì 減giảm 食thực 麤thô 燥táo 然nhiên 後hậu 乃nãi 瘦sấu
Đây là năm việc mà sẽ khiến con người dễ béo phì. Nếu chẳng muốn béo phì, hãy ăn uống thanh đạm thì thân thể sẽ thon nhỏ."

於ư 是thị 世Thế 尊Tôn 即tức 說thuyết 偈kệ 言ngôn
Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:

人nhân 當đương 有hữu 念niệm 意ý
每mỗi 食thực 知tri 自tự 少thiểu

從tùng 是thị 痛thống 用dụng 薄bạc

節tiết 消tiêu 而nhi 保bảo 壽thọ


"Là người hãy nhớ nghĩ
Khi ăn tự biết đủ
Tức sẽ bớt tham muốn
Tiết chế tất sống lâu"

王vương 聞văn 此thử 偈kệ 歡hoan 喜hỷ 無vô 量lượng 即tức 呼hô 厨trù 士sĩ 而nhi 告cáo 之chi 曰viết
Khi nghe bài kệ này, nhà vua rất vui mừng, liền gọi quan ngự trù và truyền lệnh rằng:

受thọ 誦tụng 此thử 偈kệ 若nhược 下hạ 食thực 時thời 先tiên 為vì 我ngã 說thuyết 然nhiên 後hậu 下hạ 食thực
"Khanh hãy ghi nhớ bài kệ này và đọc lên khi trẫm sắp ăn."

王vương 辭từ 還hoàn 宮cung 厨trù 士sĩ 下hạ 食thực 輒triếp 便tiện 說thuyết 偈kệ 王vương 聞văn 偈kệ 喜hỷ 日nhật 減giảm 一nhất 匙thi 食thực 轉chuyển 減giảm 少thiểu 遂toại 以dĩ 身thân 輕khinh 即tức 瘦sấu 如như 前tiền 自tự 見kiến 如như 此thử 歡hoan 欣hân 念niệm 佛Phật 即tức 起khởi 步bộ 行hành 往vãng 到đáo 佛Phật 所sở 為vì 佛Phật 作tác 禮lễ
Sau đó nhà vua từ biệt Đức Phật và trở về cung. Mỗi khi dọn thức ăn lên, quan ngự trù liền đọc bài kệ. Nhà vua rất vui khi nghe bài kệ và mỗi ngày giảm một muỗng thức ăn. Do lượng thức ăn ngày càng giảm nên dần dần khiến thân thể nhà vua nhẹ nhàng và thon gọn như trước. Khi tự thấy như thế, nhà vua vui mừng và nhớ đến Phật. Ngài liền đứng dậy và đi bộ đến chỗ của Phật, rồi đảnh lễ Đức Phật.

佛Phật 命mệnh 令linh 坐tọa 而nhi 問vấn 王vương 曰viết
Đức Phật bảo hãy ngồi xuống và hỏi nhà vua rằng:

車xa 馬mã 人nhân 從tùng 為vi 所sở 在tại 也dã 何hà 緣duyên 步bộ 行hành
"Ngựa xe và đoàn tùy tùng của đại vương luôn có sẵn, cớ sao phải đi bộ đến đây?"

王vương 喜hỷ 白bạch 佛Phật
Nhà vua vui mừng thưa với Phật rằng:

前tiền 得đắc 佛Phật 教giáo 奉phụng 行hành 如như 法Pháp 今kim 者giả 身thân 輕khinh 世Thế 尊Tôn 之chi 力lực 是thị 以dĩ 步bộ 來lai 知tri 為vi 何hà 如như
"[Thưa Thế Tôn!] Lúc trước được Phật điểm hóa, con phụng hành làm theo và nay thân thể trở nên nhẹ nhàng. Đây đều là do uy lực giáo hóa của Thế Tôn. Do đó con mới đi bộ đến đây để xem thử thế nào."

佛Phật 告cáo 大đại 王vương
Phật bảo đại vương rằng:

世thế 人nhân 如như 此thử 不bất 知tri 無vô 常thường 長trưởng 身thân 情tình 欲dục 不bất 念niệm 為vi 福phước 人nhân 死tử 神thần 去khứ 留lưu 身thân 墳phần 塜trủng 智trí 者giả 養dưỡng 神thần 愚ngu 者giả 養dưỡng 身thân 若nhược 能năng 解giải 此thử 奉phụng 修tu 聖Thánh 教giáo
"Người đời là như thế. Họ chẳng biết vô thường, nuôi dưỡng thân thể, tăng trưởng ái dục, và chẳng siêng tu phước. Lúc chết, thần thức lìa khỏi và chỉ còn thân xác ở gò mả. Bậc trí tu tập trí tuệ, còn kẻ ngu nuôi dưỡng thân thể. Nếu ai hiểu ý nghĩa này thì hãy gắng phụng hành Thánh giáo."

於ư 是thị 世Thế 尊Tôn 重trùng 說thuyết 偈kệ 言ngôn
Lúc bấy giờ Thế Tôn lại nói kệ rằng:

人nhân 之chi 無vô 聞văn
老lão 如như 特đặc 牛ngưu

但đãn 長trưởng 肌cơ 肥phì

無vô 有hữu 智trí 慧tuệ


"Làm người không học hỏi
Lúc già như bò đực
Nó chỉ tăng béo phì
Chẳng có chút phước tuệ

生sanh 死tử 無vô 聊liêu
往vãng 來lai 艱gian 難nan

意ý 倚ỷ 貪tham 身thân

更cánh 苦khổ 無vô 端đoan


Sanh tử vô số lần
Đến đi đầy gian khó
Ý cậy tham luyến thân
Sanh tử khổ muôn vàn

慧tuệ 人nhân 見kiến 苦khổ
是thị 以dĩ 弃khí 身thân

滅diệt 意ý 斷đoạn 欲dục

愛ái 盡tận 無vô 生sanh


Người trí thấy ách khổ
Cho nên lìa bỏ thân
Diệt ý đoạn các hành
Ái tận chứng vô sanh"

王vương 重trùng 聞văn 偈kệ 欣hân 然nhiên 意ý 解giải 即tức 發phát 無vô 上thượng 正chánh 真chân 道Đạo 意ý 聽thính 者giả 無vô 數số 皆giai 得đắc 法Pháp 眼nhãn
Khi lại nghe được bài kệ, nhà vua rất vui mừng và tâm ý khai mở. Ngài liền phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Bấy giờ có vô số người đến nghe Pháp cũng đều được Pháp nhãn thanh tịnh.

地Địa 獄Ngục 品Phẩm 第đệ 三tam 十thập
Phẩm 30: Địa Ngục


昔tích 舍Xá 衛Vệ 國Quốc 有hữu 婆Bà 羅La 門Môn 師sư 名danh 富Phú 蘭Lan 迦Ca 葉Diếp 與dữ 五ngũ 百bách 弟đệ 子tử 相tương 隨tùy 國quốc 王vương 人nhân 民dân 先tiên 共cộng 奉phụng 事sự 佛Phật 初sơ 得đắc 道Đạo 與dữ 諸chư 弟đệ 子tử 從tùng 羅La 閱Duyệt 祇Kỳ 至chí 舍Xá 衛Vệ 國Quốc 身thân 相tướng 顯hiển 赫hách 道Đạo 教giáo 弘hoằng 美mỹ 國quốc 王vương 中trung 宮cung 率suất 土thổ 人nhân 民dân 莫mạc 不bất 奉phụng 敬kính
Thuở xưa ở thành Phong Đức có một Phạm Chí sư tên là Mãn Ẩm Quang. Ông có 500 đệ tử theo học tập. Trước đây quốc vương và nhân dân đều cùng phụng sự ông ta. Bấy giờ Đức Phật vừa mới thành Đạo. Ngài cùng với các đệ tử từ thành Vương Xá đến thành Phong Đức. Thân tướng của Phật chói sáng và Đạo Pháp lan truyền khắp nơi. Từ vua chúa cho đến nhân dân, không ai là chẳng cung kính phụng hành.

於ư 是thị 富Phú 蘭Lan 迦Ca 葉Diếp 起khởi 嫉tật 妬đố 意ý 欲dục 毀hủy 世Thế 尊Tôn 獨độc 望vọng 敬kính 事sự
Do đó Phạm chí Mãn Ẩm Quang khởi lòng ganh ghét và muốn hủy báng Thế Tôn để một mình được mọi người kính ngưỡng.

即tức 將tương 弟đệ 子tử 見kiến 波Ba 斯Tư 匿Nặc 王Vương 而nhi 自tự 陳trần 曰viết
Ông liền dẫn các đệ tử đến gặp vua Thắng Quân và bày tỏ rằng:

吾ngô 等đẳng 長trưởng 老lão 先tiên 學học 國quốc 之chi 舊cựu 師sư 沙Sa 門Môn 瞿Cù 曇Đàm 後hậu 出xuất 求cầu 道Đạo 實thật 無vô 神thần 聖thánh 自tự 稱xưng 為vi 佛Phật 而nhi 王vương 捨xả 我ngã 欲dục 專chuyên 奉phụng 之chi 今kim 欲dục 與dữ 佛Phật 捔giác 試thí 道Đạo 德đức 知tri 誰thùy 為vi 勝thắng 勝thắng 者giả 王vương 便tiện 終chung 身thân 奉phụng 之chi
"[Tâu đại vương!] Chúng tôi là các bậc trưởng lão tiền bối, là bậc thầy từ xưa ở trong quốc gia này. Đạo sư Năng Nhân là kẻ hậu bối cầu Đạo, thật chẳng phải là thần thánh mà tự xưng là Phật, và còn khiến đại vương bỏ tôi mà hết lòng phụng sự ông ta. Tôi muốn nay cùng với Phật so tài Đạo lực để biết ai cao thấp. Người thắng cuộc thì đại vương phải suốt đời phụng sự."

王vương 言ngôn
Nhà vua nói rằng:

大đại 善thiện
"Rất tốt!"

王vương 即tức 嚴nghiêm 駕giá 往vãng 到đáo 佛Phật 所sở 禮lễ 畢tất 白bạch 言ngôn
Nhà vua liền chuẩn bị xe ngựa và đến chỗ của Phật, rồi đảnh lễ và bạch rằng:

富Phú 蘭Lan 迦Ca 葉Diếp 欲dục 與dữ 世Thế 尊Tôn 捔giác 盡tận 道Đạo 力lực 現hiện 神thần 變biến 化hóa 不bất 審thẩm 世Thế 尊Tôn 為vi 可khả 爾nhĩ 不phủ
"[Bạch Thế Tôn!] Phạm chí Mãn Ẩm Quang muốn cùng với Thế Tôn so tài Đạo lực và hiện thần thông biến hóa. Không biết Thế Tôn có thể nhận lời chăng?"

佛Phật 言ngôn
Đức Phật bảo:

大đại 佳giai
"Rất tốt!"

結kết 期kỳ 七thất 日nhật 當đương 捔giác 變biến 化hóa 王vương 於ư 城thành 東đông 平bình 廣quảng 好hảo 地địa 立lập 二nhị 高cao 座tòa 高cao 四tứ 十thập 丈trượng 七thất 寶bảo 莊trang 校giáo 施thi 設thiết 幢tràng 幡phan 整chỉnh 頓đốn 座tòa 席tịch 二nhị 座tòa 中trung 間gian 相tương 去khứ 二nhị 里lý 二nhị 部bộ 弟đệ 子tử 各các 坐tọa 其kỳ 下hạ 國quốc 王vương 群quần 臣thần 大đại 眾chúng 雲vân 集tập 欲dục 觀quan 二nhị 人nhân 捔giác 其kỳ 神thần 化hóa
Kỳ hẹn cho cuộc so tài biến hóa này sẽ diễn ra sau bảy ngày. Nhà vua ra lệnh cho dựng hai tòa cao ở chỗ đất rộng, bằng phẳng, và sạch sẽ ở phía đông của thành. Mỗi tòa cao 40 trượng, trang nghiêm bằng bảy báu, an trí biểu ngữ cùng cờ hiệu, và được lót chiếu ngay ngắn. Khoảng cách giữa hai tòa là hai dặm và các đệ tử của hai bên ngồi ở dưới đó. Lúc ấy quốc vương, quần thần và đại chúng tề tựu như mây để muốn xem hai vị thầy tỉ thí thần thông biến hóa.

於ư 時thời 迦Ca 葉Diếp 與dữ 諸chư 弟đệ 子tử 先tiên 到đáo 座tòa 所sở 登đăng 梯thê 而nhi 上thượng 有hữu 鬼quỷ 神thần 王vương 名danh 曰viết 般Ban 師Sư 見kiến 迦Ca 葉Diếp 等đẳng 虛hư 妄vọng 嫉tật 妬đố 即tức 起khởi 大đại 風phong 吹xuy 其kỳ 高cao 座tòa 坐tọa 具cụ 顛điên 倒đảo 幢tràng 幡phan 飛phi 揚dương 雨vũ 沙sa 礫lịch 石thạch 眼nhãn 不bất 得đắc 視thị 世Thế 尊Tôn 高cao 座tòa 淡đạm 然nhiên 不bất 動động 佛Phật 與dữ 大đại 眾chúng 庠tường 序tự 而nhi 來lai 方phương 向hướng 高cao 座tòa 忽hốt 然nhiên 已dĩ 上thượng 眾chúng 僧Tăng 一nhất 切thiết 寂tịch 然nhiên 次thứ 坐tọa
Bấy giờ Phạm chí Mãn Ẩm Quang cùng với các đệ tử đến trước chỗ tòa cao, rồi ông leo lên bậc thang. Lúc ấy có quỷ thần vương tên là Mật Thần. Khi thấy tâm giả dối đố kỵ của Phạm chí Mãn Ẩm Quang và các đệ tử, quỷ thần vương liền thổi tòa cao của ông ta, khiến chỗ ngồi nghiêng ngả, biểu ngữ và cờ hiệu bay tứ tung. Quỷ thần vương lại mưa xuống cát đá vụn nên khiến hai mắt của Phạm chí Mãn Ẩm Quang chẳng dám mở ra nhìn. Giữa lúc đó thì Pháp tòa của Thế Tôn vẫn yên lặng bất động. Phật cùng đại chúng uy nghiêm đi đến. Khi vừa đến tòa cao, Thế Tôn hốt nhiên đã ngồi trên Pháp tòa. Tất cả chư Tăng đều ngồi im lặng theo thứ tự.

王vương 及cập 群quần 臣thần 加gia 敬kính 稽khể 首thủ 白bạch 佛Phật 言ngôn
Thấy vậy, nhà vua cùng quần thần càng thêm kính ngưỡng, cúi đầu và thưa với Phật rằng:

願nguyện 垂thùy 神thần 化hóa 厭yếm 伏phục 邪tà 見kiến 并tinh 令linh 國quốc 人nhân 明minh 信tín 正chánh 真chân
"Xin Thế Tôn rủ lòng thương xót mà thị hiện thần thông biến hóa để chế phục tà kiến và cũng khiến nhân dân trong nước tin sâu chánh giáo."

於ư 是thị 世Thế 尊Tôn 即tức 於ư 座tòa 上thượng 㸌hoát 然nhiên 不bất 現hiện 即tức 昇thăng 虛hư 空không 奮phấn 大đại 光quang 明minh 東đông 沒một 西tây 現hiện 四tứ 方phương 亦diệc 爾nhĩ 身thân 出xuất 水thủy 火hỏa 上thượng 下hạ 交giao 易dị 坐tọa 臥ngọa 空không 中trung 十thập 二nhị 變biến 化hóa 沒một 身thân 不bất 現hiện 還hoàn 在tại 座tòa 上thượng 天thiên 龍long 鬼quỷ 神thần 華hoa 香hương 供cúng 養dường 讚tán 善thiện 之chi 聲thanh 震chấn 動động 天thiên 地địa
Lúc bấy giờ Thế Tôn đang ở trên Pháp tòa, liền hoát nhiên biến mất, bay lên hư không và phóng đại quang minh. Ngài hiện ra ở phương tây và ẩn mất ở phương đông; bốn phương cũng đều như vậy. Phần trên của thân vọt ra nước, còn phần dưới của thân phun ra lửa, hoặc ngược lại. Ngài nằm hay ngồi trong hư không và hiện ra thêm 12 sự biến hóa nữa, rồi bỗng nhiên biến mất và ngồi lại trên Pháp tòa. Lúc ấy trời rồng quỷ thần rải hương hoa cúng dường và âm thanh tán dương chấn động khắp đất trời.

富Phú 蘭Lan 迦Ca 葉Diếp 自tự 知tri 無vô 道Đạo 低đê 頭đầu 慚tàm 愧quý 不bất 敢cảm 舉cử 目mục
Phạm chí Mãn Ẩm Quang tự biết chẳng có đắc Đạo nên cúi đầu xấu hổ và chẳng dám ngước mắt nhìn.

於ư 是thị 金Kim 剛Cang 力Lực 士Sĩ 舉cử 金kim 剛cang 杵xử 杵xử 頭đầu 火hỏa 出xuất 以dĩ 擬nghĩ 迦Ca 葉Diếp
Bấy giờ vị Kim Cang Lực Sĩ nhấc chày kim cang lên, ở đầu chày có lửa phun ra, và hỏi Phạm chí Mãn Ẩm Quang rằng:

何hà 以dĩ 不bất 現hiện 卿khanh 變biến 化hóa 乎hồ
"Sao ông chẳng hiện thần thông biến hóa?"

迦Ca 葉Diếp 惶hoàng 怖bố 投đầu 座tòa 而nhi 走tẩu 五ngũ 百bách 弟đệ 子tử 奔bôn 波ba 迸bính 散tán 世Thế 尊Tôn 威uy 顏nhan 容dung 無vô 欣hân 慼thích 還hoàn 到đáo 祇Kỳ 樹Thụ 給Cấp 孤Cô 獨Độc 園Viên 國quốc 王vương 群quần 臣thần 歡hoan 喜hỷ 辭từ 退thoái
Phạm chí Mãn Ẩm Quang kinh hoàng và bỏ chỗ ngồi mà chạy. 500 đệ tử cũng bỏ chạy loạn xạ. Bấy giờ uy nhan của Thế Tôn chẳng chút lo âu, rồi Ngài trở về vườn Cấp Cô Độc trong Rừng cây Chiến Thắng. Quốc vương cùng quần thần vui vẻ ra về.

於ư 是thị 富Phú 蘭Lan 迦Ca 葉Diếp 與dữ 諸chư 弟đệ 子tử 受thọ 辱nhục 而nhi 去khứ 去khứ 至chí 道đạo 中trung 逢phùng 一nhất 老lão 優Ưu 婆Bà 夷Di 字tự 摩Ma 尼Ni 逆nghịch 罵mạ 之chi 曰viết
Khi ấy Phạm chí Mãn Ẩm Quang cùng các đệ tử chịu nhục bỏ đi. Họ đang đi trên đường thì gặp một Thanh Tín Nữ già tên là Bảo Châu mắng chửi rằng:

卿khanh 等đẳng 群quần 愚ngu 不bất 自tự 忖thốn 度độ 而nhi 欲dục 與dữ 佛Phật 比tỉ 捔giác 道Đạo 德đức 狂cuồng 愚ngu 欺khi 誑cuống 不bất 知tri 羞tu 恥sỉ 亦diệc 可khả 不bất 須tu 持trì 此thử 面diện 目mục 行hành 於ư 世thế 間gian 也dã
"Các người là một đám ngu si, chẳng biết lượng sức mình mà dám cùng Phật so tài Đạo lực. Thật là điên rồ dối trá và chẳng biết liêm sỉ. Các người còn sỉ diện nào mà vác mặt đi trên thế gian nữa."

富Phú 蘭Lan 迦Ca 葉Diếp 羞tu 諸chư 弟đệ 子tử 至chí 江giang 水thủy 邊biên 誑cuống 諸chư 弟đệ 子tử
Phạm chí Mãn Ẩm Quang cảm thấy xấu hổ ở trước các đệ tử, nên ông đến gần bờ sông mà nói dối gạt họ rằng:

我ngã 今kim 投đầu 水thủy 必tất 生sanh 梵Phạm 天Thiên 若nhược 我ngã 不bất 還hoàn 則tắc 知tri 彼bỉ 樂lạc
"Ta nay nhảy xuống nước và nhất định sẽ sanh lên cõi Phạm Thiên. Nếu ta chẳng quay lại thì biết rằng ta đang ở đó thọ hưởng vui sướng."

諸chư 弟đệ 子tử 待đãi 之chi 不bất 還hoàn 自tự 共cộng 議nghị 言ngôn
Chúng đệ tử chờ hồi lâu mà chẳng thấy quay lại nên cùng bàn luận với nhau rằng:

師sư 必tất 上thượng 天thiên 我ngã 何hà 宜nghi 住trụ
"Thầy mình nhất định đã sanh lên trời. Chúng ta còn ở đây làm gì?"

一nhất 一nhất 投đầu 水thủy 冀ký 當đương 隨tùy 師sư 不bất 知tri 罪tội 牽khiên 皆giai 墮đọa 地địa 獄ngục
Và thế là ai nấy cùng nhau nhảy xuống nước và mong muốn theo gót của thầy mình. Họ chẳng biết bị nghiệp tội lôi đi và đều đọa địa ngục.

後hậu 日nhật 國quốc 王vương 聞văn 其kỳ 如như 此thử 甚thậm 驚kinh 怪quái 之chi 往vãng 到đáo 佛Phật 所sở 白bạch 佛Phật 言ngôn
Khi nghe được chuyện như thế vào ngày hôm sau, vua Thắng Quân vô cùng kinh ngạc, rồi đến chỗ của Phật và bạch Phật rằng:

富Phú 蘭Lan 迦Ca 葉Diếp 師sư 徒đồ 迷mê 愚ngu 何hà 緣duyên 乃nãi 爾nhĩ
"[Bạch Thế Tôn!] Phạm chí Mãn Ẩm Quang và đệ tử của ông ta thật ngu si mê muội. Nhân duyên gì mà phải chịu như thế?"

佛Phật 告cáo 王vương 曰viết
Phật bảo nhà vua rằng:

富Phú 蘭Lan 迦Ca 葉Diếp 師sư 徒đồ 重trọng 罪tội 有hữu 二nhị
"Phạm chí Mãn Ẩm Quang và đệ tử của ông ta đã phạm hai trọng tội.

一nhất 者giả 三tam 毒độc 熾sí 盛thịnh 自tự 稱xưng 得đắc 道Đạo 二nhị 者giả 謗báng 毀hủy 如Như 來Lai 欲dục 望vọng 敬kính 事sự
1. ba độc bốc cháy phừng phừng và tự mạo xưng đắc Đạo
2. hủy báng Như Lai và mong người cung kính

以dĩ 此thử 二nhị 罪tội 應ưng 墮đọa 地địa 獄ngục 殃ương 咎cữu 催thôi 逼bức 使sử 其kỳ 投đầu 河hà 身thân 死tử 神thần 去khứ 受thọ 苦khổ 無vô 量lượng 是thị 以dĩ 智trí 者giả 守thủ 攝nhiếp 其kỳ 心tâm 內nội 不bất 興hưng 惡ác 外ngoại 罪tội 不bất 至chí 譬thí 如như 邊biên 城thành 與dữ 寇khấu 連liên 接tiếp 守thủ 備bị 牢lao 固cố 無vô 所sở 畏úy 懼cụ 內nội 人nhân 安an 隱ẩn 外ngoại 寇khấu 不bất 入nhập 智trí 者giả 自tự 護hộ 亦diệc 復phục 如như 是thị
Bởi phạm hai tội đó nên họ phải đọa địa ngục. Do tai ương dẫn dắt nên khiến họ quăng mình xuống sông. Khi chết thần thức rời khỏi thân xác và họ phải chịu vô lượng thống khổ. Cho nên bậc trí luôn thu nhiếp tâm họ, bên trong chẳng khởi ác nên ở ngoài tội chẳng thể đến. Đây ví như cạnh bên thành có giặc cướp liên miên. Nếu ai phòng thủ kiên cố thì sẽ chẳng sợ hãi bất cứ điều gì. Người ở trong thành an ổn thì giặc cướp ở ngoài chẳng thể vào. Bậc trí tự hộ thì cũng lại như thế."

於ư 是thị 世Thế 尊Tôn 即tức 說thuyết 偈kệ 言ngôn
Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:

妄vọng 證chứng 求cầu 賂lộ
行hành 已dĩ 不bất 正chánh

怨oán 譖trấm 良lương 人nhân

以dĩ 枉uổng 治trị 世thế

罪tội 牽khiên 斯tư 人nhân

自tự 投đầu 於ư 坑khanh


"Nói dối tham hối lộ
Việc làm không chân chánh
Vu khống người lương thiện
Phạt oan bậc thiện sĩ
Tội siết những kẻ đó
Tự lọt hố hiểm sâu

如như 備bị 邊biên 城thành
中trung 外ngoại 牢lao 固cố

自tự 守thủ 其kỳ 心tâm

非phi 法Pháp 不bất 生sanh

行hành 缺khuyết 致trí 憂ưu

令linh 墮đọa 地địa 獄ngục


Ví như phòng vệ thành
Trong ngoài đều kiên cố
Ai tự giữ tâm họ
Phi Pháp chẳng thể sanh
Lầm lỗi nảy ưu sầu
Khiến đọa chốn địa ngục"

佛Phật 說thuyết 偈kệ 已dĩ 重trùng 告cáo 王vương 曰viết
Khi nói kệ xong, Đức Phật lại bảo nhà vua rằng:

乃nãi 往vãng 昔tích 時thời 有hữu 二nhị 獼mi 猴hầu 王vương 各các 主chủ 五ngũ 百bách 獼mi 猴hầu 一nhất 王vương 起khởi 嫉tật 妬đố 意ý 欲dục 殺sát 一nhất 王vương 規quy 圖đồ 獨độc 治trị 便tiện 往vãng 共cộng 鬪đấu 數sác 數sác 不bất 如như 羞tu 慚tàm 退thoái 去khứ 到đáo 大đại 海hải 邊biên 海hải 曲khúc 之chi 中trung 有hữu 水thủy 聚tụ 沫mạt 風phong 吹xuy 積tích 聚tụ 高cao 數sổ 百bách 丈trượng
"Vào thuở xưa có hai con khỉ chúa. Mỗi khỉ chúa thống lãnh 500 con khỉ. Có một hôm, trong lòng của con khỉ chúa nọ khởi sanh đố kỵ và mưu tính muốn giết con khỉ chúa kia để một mình thống trị. Nó liền dẫn đàn khỉ đến chiến đấu mà luôn luôn bị thua. Nó cảm thấy xấu hổ rồi bỏ đi đến bờ biển lớn. Bấy giờ trong vùng vịnh có bọt nước tụ bị gió thổi nên chúng chất cao lên đến vài trăm trượng.

獼mi 猴hầu 王vương 愚ngu 癡si 謂vị 是thị 雪Tuyết 山Sơn 語ngứ 群quần 輩bối 言ngôn
Con khỉ chúa ngu si đó cho là núi Tuyết, rồi bảo đàn khỉ rằng:

久cửu 聞văn 海hải 中trung 有hữu 雪Tuyết 山Sơn 其kỳ 中trung 快khoái 樂lạc 甘cam 菓quả 恣tứ 口khẩu 今kim 日nhật 乃nãi 見kiến 吾ngô 當đương 先tiên 往vãng 行hành 視thị 若nhược 審thẩm 樂lạc 者giả 不bất 能năng 復phục 還hoàn 若nhược 不bất 樂lạc 者giả 當đương 來lai 語ngứ 汝nhữ
'Xưa ta nghe trong biển có núi Tuyết. Trong ấy rất vui sướng và có trái cây ngon ngọt tha hồ mà ăn. Hôm nay mới tận mắt thấy, ta sẽ đến đó trước xem sao. Nếu đích thật vui sướng thì ta sẽ không trở về. Còn như chẳng vui sướng, ta sẽ về nói cho các người hay.'

於ư 是thị 上thượng 樹thụ 盡tận 力lực 跳khiêu 騰đằng 投đầu 聚tụ 沫mạt 中trung 溺nịch 沒một 海hải 底để 餘dư 者giả 怪quái 之chi 不bất 出xuất 謂vị 必tất 大đại 樂lạc 一nhất 一nhất 投đầu 中trung 斷đoạn 羣quần 溺nịch 死tử
Và thế là từ trên cây, nó dùng hết sức nhảy vào trong bọt nước và bị chết chìm dưới đáy biển. Chờ một hồi lâu mà chẳng thấy ra khỏi, những con khỉ khác cảm thấy quái lạ, nên chúng cho rằng dưới đó nhất định là rất vui sướng. Sau đó từng con từng con một lao xuống và kết quả là cả đàn bị chết chìm."

佛Phật 告cáo 王vương 曰viết
Phật bảo nhà vua rằng:

爾nhĩ 時thời 嫉tật 妬đố 獼mi 猴hầu 王vương 者giả 今kim 富Phú 蘭Lan 迦Ca 葉Diếp 是thị 也dã 群quần 輩bối 者giả 今kim 富Phú 蘭Lan 迦Ca 葉Diếp 弟đệ 子tử 五ngũ 百bách 人nhân 是thị 也dã 彼bỉ 一nhất 獼mi 猴hầu 王vương 者giả 我ngã 身thân 是thị 也dã 富Phú 蘭Lan 迦Ca 葉Diếp 前tiền 世thế 坐tọa 懷hoài 嫉tật 妬đố 為vị 罪tội 所sở 牽khiên 自tự 投đầu 聚tụ 沫mạt 絕tuyệt 羣quần 斷đoạn 種chủng 今kim 復phục 誹phỉ 謗báng 盡tận 投đầu 江giang 河hà 罪tội 對đối 使sử 然nhiên 累lũy 劫kiếp 無vô 限hạn
"Con khỉ chúa sanh lòng ganh ghét thuở đó, nay chính là Phạm chí Mãn Ẩm Quang. Còn đàn khỉ của nó, nay chính là 500 đệ tử của Phạm chí Mãn Ẩm Quang vậy. Con khỉ chúa của một đàn khỉ khác chính là tiền thân của Ta. Ở đời trước, Phạm chí Mãn Ẩm Quang vì ôm lòng đố kỵ nên bị tội dẫn dắt, tự mình lao xuống bọt nước và cũng khiến cả đàn bị chết. Bây giờ ông ta lại phỉ báng và cũng khiến đồ chúng quăng mình xuống sông. Họ bị nghiệp tội sai khiến như thế cho đến nhiều kiếp cũng khó mà thoát ra."

王vương 聞văn 信tín 解giải 作tác 禮lễ 而nhi 去khứ
Khi nghe xong, nhà vua tỏ ngộ, rồi đảnh lễ và cáo lui.




昔tích 有hữu 七thất 比Bỉ 丘Khâu 入nhập 山sơn 學học 道Đạo 十thập 二nhị 年niên 中trung 不bất 能năng 得đắc 道Đạo
Thuở xưa có bảy vị Bhikṣu vào rừng học Đạo và trải qua 12 năm mà chẳng thể đắc Đạo.

自tự 共cộng 議nghị 言ngôn
Một hôm họ cùng bàn luận với nhau rằng:

學học 道Đạo 甚thậm 難nan 毀hủy 形hình 執chấp 節tiết 不bất 避tị 寒hàn 苦khổ 終chung 身thân 乞khất 食thực 受thọ 辱nhục 難nan 堪kham 道Đạo 卒thốt 叵phả 得đắc 罪tội 難nan 可khả 除trừ 唐đường 自tự 勞lao 勤cần 殞vẫn 命mạng 山sơn 中trung 不bất 如như 歸quy 家gia 修tu 立lập 門môn 戶hộ 娶thú 妻thê 養dưỡng 子tử 廣quảng 為vi 利lợi 業nghiệp 快khoái 心tâm 樂lạc 意ý 安an 知tri 後hậu 事sự
"Học Đạo thật quá khó. Thân thể hao mòn, đói rét khốn khổ, suốt đời phải đi khất thực, và luôn chịu nhục khó nhẫn mà chẳng thể đắc Đạo. Nghiệp tội thật khó diệt trừ, chỉ nhọc nhằn uổng công, và có thể sẽ phải mất mạng ở trên núi nữa. Chi bằng hãy trở về nhà để gầy dựng gia đình, lấy vợ nuôi con, và nỗ lực phát triển gia nghiệp thì tâm ý sẽ được thỏa thích. Chúng ta hà tất phải lo lắng cho mai sau để làm gì?"

於ư 是thị 七thất 人nhân 即tức 起khởi 出xuất 山sơn 佛Phật 遙diêu 知tri 之chi 應ưng 當đương 得đắc 度độ 不bất 忍nhẫn 小tiểu 苦khổ 終chung 墮đọa 地địa 獄ngục 甚thậm 可khả 憐lân 傷thương 佛Phật 即tức 化hóa 作tác 沙Sa 門Môn 往vãng 到đáo 谷cốc 口khẩu
Thế là bảy người họ liền đứng dậy và xuống núi. Đức Phật từ xa biết họ đáng được hóa độ. Chỉ có một chút khổ mà không nhẫn chịu được thì họ vĩnh viễn sẽ đọa địa ngục. Bởi rất thương xót cho họ nên Đức Phật liền hóa làm một vị Đạo Nhân và đi đến cửa hang động.

逢phùng 七thất 比Bỉ 丘Khâu 化hóa 人nhân 問vấn 曰viết
Khi gặp bảy vị Bhikṣu ở giữa đường, hóa nhân hỏi rằng:

久cửu 承thừa 學học 道Đạo 何hà 以dĩ 來lai 出xuất
"Các vị học Đạo đã lâu, sao giờ lại rời bỏ?"

七thất 人nhân 答đáp 言ngôn
Bảy người họ đáp rằng:

學học 道Đạo 勤cần 苦khổ 罪tội 根căn 難nan 拔bạt 分phân 衛vệ 乞khất 食thực 受thọ 辱nhục 難nan 堪kham 又hựu 此thử 山sơn 中trung 無vô 供cúng 養dường 者giả 璅tỏa 璅tỏa 積tích 年niên 恒hằng 守thủ 儉kiệm 約ước 唐đường 自tự 困khốn 苦khổ 道Đạo 不bất 可khả 得đắc 且thả 欲dục 還hoàn 家gia 廣quảng 求cầu 利lợi 業nghiệp 大đại 作tác 資tư 財tài 後hậu 老lão 求cầu 道Đạo
"Học Đạo quá gian khổ mà căn gốc của nghiệp tội chẳng thể nhổ trừ, phải đi khất thực và chịu nhục thật khó nhẫn. Hơn nữa ở trong núi chẳng có ai cúng dường và phải ăn uống kham khổ đến nhiều năm. Chỉ tự nhọc nhằn uổng công mà chẳng thể đắc Đạo. Chi bằng hoàn tục và dốc sức mưu cầu sự nghiệp để làm ra nhiều của cải, rồi đến lúc già thì mới cầu Đạo."

化hóa 沙Sa 門Môn 言ngôn
Hóa Đạo Nhân bảo rằng:

且thả 止chỉ 且thả 止chỉ 聽thính 我ngã 所sở 言ngôn 人nhân 命mạng 無vô 常thường 旦đán 不bất 保bảo 夕tịch 學học 道Đạo 雖tuy 難nan 前tiền 苦khổ 後hậu 樂lạc 居cư 家gia 艱gian 難nan 億ức 劫kiếp 無vô 息tức 妻thê 息tức 會hội 止chỉ 願nguyện 同đồng 安an 利lợi 欲dục 望vọng 永vĩnh 樂lạc 不bất 遭tao 患hoạn 難nạn 是thị 猶do 治trị 病bệnh 服phục 毒độc 有hữu 增tăng 無vô 損tổn 也dã 三tam 界giới 有hữu 形hình 皆giai 有hữu 憂ưu 惱não 唯duy 有hữu 信tín 戒giới 無vô 放phóng 逸dật 意ý 精tinh 進tấn 得đắc 道Đạo 眾chúng 苦khổ 永vĩnh 畢tất
"Xin hãy dừng lại! Hãy nghe tôi nói. Đời người vô thường, sáng tối chẳng thể bảo hộ. Học Đạo tuy gian nan nhưng trước khổ sau vui. Còn sống tại gia thì sự gian khổ đến ức kiếp mà chẳng ngừng nghỉ. Những ai mong cầu vợ chồng con cái sum vầy, nguyện cùng hưởng lợi ích an bình, vĩnh viễn được an vui, và không gặp hoạn nạn thì cũng giống như muốn trị bệnh mà lại đi uống thuốc độc. Việc đó chỉ tăng mà chẳng giảm. Chúng sanh trong ba cõi đều có ưu phiền khổ não. Duy chỉ có tín tâm giữ giới, chẳng buông lung tâm ý, và tinh tấn đắc Đạo thì mọi khổ ách mới vĩnh viễn chẳng còn."

於ư 是thị 化hóa 沙Sa 門Môn 現hiện 佛Phật 身thân 相tướng 光quang 像tượng 巍nguy 巍nguy 即tức 說thuyết 偈kệ 言ngôn
Lúc bấy giờ hóa Đạo Nhân hiện ra thân tướng quang minh uy nghiêm của Phật, và liền nói kệ rằng:

學học 難nan 捨xả 罪tội 難nan
居cư 在tại 家gia 亦diệc 難nan

會hội 止chỉ 同đồng 利lợi 難nan

艱gian 難nan 無vô 過quá 有hữu


"Tu khó bỏ ác khó
Tại gia sống cũng khó
Hợp hội đồng lợi khó
Khó nhất vượt ba cõi

比Bỉ 丘Khâu 乞khất 求cầu 難nan
何hà 可khả 不bất 自tự 勉miễn

精tinh 進tấn 得đắc 自tự 然nhiên

終chung 無vô 欲dục 於ư 人nhân


Bhikṣu khất thực khó
Sao không tự gắng sức?
Tinh tấn được tự tại
Sau khỏi nhờ mong ai

有hữu 信tín 則tắc 戒giới 成thành
從tùng 戒giới 多đa 致trí 寶bảo

亦diệc 從tùng 得đắc 諧hài 偶ngẫu

在tại 所sở 見kiến 供cúng 養dường


Có tín giới sẽ thành
Từ giới nhiều tài bảo
Do giới hợp với Đạo
Nơi nơi người cúng dường

一nhất 坐tọa 一nhất 處xứ 臥ngọa
一nhất 行hành 不bất 放phóng 恣tứ

守thủ 一nhất 以dĩ 正chánh 心tâm

心tâm 樂nhạo 居cư 樹thụ 間gian


Bất luận đi nằm ngồi
Một mình không buông lung
Hãy tự hàng phục tâm
Lòng vui chốn núi rừng"

於ư 是thị 七thất 比Bỉ 丘Khâu 見kiến 佛Phật 身thân 相tướng 又hựu 聞văn 此thử 偈kệ 慚tàm 怖bố 戰chiến 慄lật 五ngũ 體thể 投đầu 地địa 稽khể 首thủ 佛Phật 足túc 攝nhiếp 心tâm 悔hối 過quá 作tác 禮lễ 而nhi 去khứ 還hoàn 入nhập 山sơn 中trung 殞vẫn 命mạng 精tinh 進tấn 思tư 惟duy 偈kệ 義nghĩa 守thủ 一nhất 正chánh 心tâm 閑nhàn 居cư 寂tịch 滅diệt 得đắc 羅La 漢Hán 道Đạo
Khi thấy thân tướng của Phật và còn nghe được những bài kệ này, bảy vị Bhikṣu cảm thấy hổ thẹn và run sợ. Họ cúi đầu đảnh lễ với năm điểm chạm đất và trán chạm sát chân của Phật, thu nhiếp tâm ý, sám hối lỗi lầm, rồi đảnh lễ và cáo lui. Sau khi trở về núi, họ hết lòng tinh tấn, tư duy về ý nghĩa của những bài kệ, chánh tâm nhất ý, sống an nhàn nơi yên tĩnh, và cuối cùng đắc Đạo Ưng Chân.

象Tượng 品Phẩm 第đệ 三tam 十thập 一nhất
Phẩm 31: Voi Dụ


昔tích 者giả 羅La 雲Vân 未vị 得đắc 道Đạo 時thời 心tâm 性tánh 麤thô 獷quánh 言ngôn 少thiểu 誠thành 信tín
Thuở xưa khi Tôn giả Phú Chướng vẫn chưa đắc Đạo, tâm tánh của ngài thô bạo và lời nói không thành tín.

佛Phật 敕sắc 羅La 雲Vân
Một hôm Phật bảo Cần sách nam Phú Chướng rằng:

汝nhữ 到đáo 賢Hiền 提Đề 精tinh 舍xá 中trung 住trú 守thủ 口khẩu 攝nhiếp 意ý 勤cần 修tu 經Kinh 戒giới
"Ở nước Hiền Đề có một tinh xá, con hãy đến nơi ấy để thu nhiếp tâm ý, gìn giữ lời nói, và siêng tụng Kinh trì giới."

羅La 雲Vân 奉phụng 教giáo 作tác 禮lễ 而nhi 去khứ 住trú 九cửu 十thập 日nhật 慙tàm 愧quý 自tự 悔hối 晝trú 夜dạ 不bất 息tức 佛Phật 往vãng 見kiến 之chi 羅La 雲Vân 歡hoan 喜hỷ 趣thú 前tiền 禮lễ 佛Phật 安an 施thi 繩thằng 床sàng 攝nhiếp 受thọ 震chấn 越việt
Cần sách nam Phú Chướng vâng lời dạy, đảnh lễ rồi cáo lui. Suốt 90 ngày ở đó, ngài cảm thấy hổ thẹn và hối lỗi đến cả ngày lẫn đêm chẳng ngừng. Do đó Đức Phật được đến thăm. Ngài rất vui mừng và đến ở trước Phật đảnh lễ, rồi đi móc cái võng và nhiếp tâm khỏi run sợ.

佛Phật 踞cứ 繩thằng 床sàng 告cáo 羅La 雲Vân 曰viết
Đức Phật ngồi ở trên võng và bảo Cần sách nam Phú Chướng rằng:

澡táo 盤bàn 取thủ 水thủy 為vi 吾ngô 洗tẩy 足túc
"Con hãy mang chậu nước tới đây để cha rửa chân."

羅La 雲Vân 受thọ 教giáo 為vì 佛Phật 洗tẩy 足túc
Cần sách nam Phú Chướng vâng lời mang đến và rửa chân cho Phật.

洗tẩy 足túc 已dĩ 訖ngật 佛Phật 語ngứ 羅La 雲Vân
Khi đã rửa chân xong, Đức Phật bảo Cần sách nam Phú Chướng rằng:

汝nhữ 見kiến 澡táo 盤bàn 中trung 洗tẩy 足túc 水thủy 不phủ
"Con có thấy nước rửa chân ở trong chậu chăng?"

羅La 雲Vân 白bạch 佛Phật
Cần sách nam Phú Chướng thưa với Phật rằng:

唯dụy 然nhiên 見kiến 之chi
"Dạ, con thấy!"

佛Phật 語ngứ 羅La 雲Vân
Phật bảo Cần sách nam Phú Chướng:

此thử 水thủy 可khả 用dụng 食thực 飲ẩm 盥quán 漱thấu 以dĩ 不phủ
"Nước này có thể dùng để nấu ăn hay súc miệng chăng?"

羅La 雲Vân 白bạch 言ngôn
Cần sách nam Phú Chướng thưa rằng:

不bất 可khả 復phục 用dụng
"Dạ, không thể dùng được nữa!

所sở 以dĩ 者giả 何hà 此thử 水thủy 本bổn 實thật 清thanh 淨tịnh 今kim 以dĩ 洗tẩy 足túc 受thọ 於ư 塵trần 垢cấu 是thị 以dĩ 之chi 故cố 不bất 可khả 復phục 用dụng
Vì sao thế? Bởi nước này vốn rất trong sạch, nhưng bây giờ đã dùng để rửa chân nên rất dơ bẩn. Cho nên nó không thể dùng được nữa."

佛Phật 語ngứ 羅La 雲Vân
Phật bảo Cần sách nam Phú Chướng:

汝nhữ 亦diệc 如như 是thị 雖tuy 為vi 吾ngô 子tử 國quốc 王vương 之chi 孫tôn 捨xả 世thế 榮vinh 祿lộc 得đắc 為vi 沙Sa 門Môn 不bất 念niệm 精tinh 進tấn 攝nhiếp 身thân 守thủ 口khẩu 三tam 毒độc 垢cấu 穢uế 充sung 滿mãn 胸hung 懷hoài 亦diệc 如như 此thử 水thủy 不bất 可khả 復phục 用dụng
"Con cũng như thế. Tuy là con trai của Ta, là cháu nội của vua, đã lìa bỏ thế tục vinh hoa để làm Đạo Nhân nhưng chẳng tinh tấn thu nhiếp thân ngữ ý, mà chỉ ôm giữ đầy rẫy cấu uế của ba độc, thì cũng như nước này vậy--không thể dùng được nữa."

佛Phật 語ngứ 羅La 雲Vân
Phật bảo Cần sách nam Phú Chướng:

棄khí 澡táo 盤bàn 中trung 水thủy
"Hãy mang nước trong chậu đổ đi."

羅La 雲Vân 即tức 棄khí
Cần sách nam Phú Chướng liền mang đổ.

佛Phật 語ngứ 羅La 雲Vân
Phật bảo Cần sách nam Phú Chướng:

澡táo 盤bàn 雖tuy 空không 可khả 用dụng 盛thình 飲ẩm 食thực 不phủ 耶da
"Tuy giờ cái chậu trống rỗng, nhưng nó có thể dùng để đựng ẩm thực chăng?"

白bạch 佛Phật 言ngôn
Ngài thưa với Phật rằng:

不bất 可khả 用dụng
"Dạ, không thể dùng!

所sở 以dĩ 然nhiên 者giả 用dụng 有hữu 澡táo 盤bàn 之chi 名danh 曾tằng 受thọ 不bất 淨tịnh 故cố
Vì sao thế? Bởi cái chậu này từng đã chứa đồ bất tịnh."

佛Phật 語ngứ 羅La 雲Vân
Phật bảo Cần sách nam Phú Chướng:

汝nhữ 亦diệc 如như 是thị 雖tuy 為vi 沙Sa 門Môn 口khẩu 無vô 誠thành 信tín 心tâm 性tánh 剛cang 強cường 不bất 念niệm 精tinh 進tấn 曾tằng 受thọ 惡ác 名danh 亦diệc 如như 澡táo 盤bàn 不bất 中trung 盛thình 食thực
"Con cũng như thế. Tuy là một Đạo Nhân nhưng lời nói không thành tín, tâm tánh cang cường, chẳng tinh tấn và từng bị mang tiếng xấu, thì cũng như cái chậu này--không thể dùng đựng thức ăn được nữa."

佛Phật 以dĩ 足túc 指chỉ 撥bát 卻khước 澡táo 盤bàn 澡táo 盤bàn 應ứng 時thời 輪luân 轉chuyển 而nhi 走tẩu 自tự 跳khiêu 自tự 墮đọa 數sổ 返phản 乃nãi 止chỉ
Tiếp đó Đức Phật đưa ngón chân hất cái chậu. Cái chậu lập tức xoay vòng vòng đến nhiều lần mới dừng lại.

佛Phật 語ngứ 羅La 雲Vân
Phật bảo Cần sách nam Phú Chướng:

汝nhữ 寧ninh 惜tích 澡táo 盤bàn 恐khủng 破phá 不phủ
"Con có đau tiếc gì nếu bị cha làm vỡ cái chậu này chăng?"

羅La 雲Vân 白bạch 佛Phật
Cần sách nam Phú Chướng thưa với Phật rằng:

洗tẩy 足túc 之chi 器khí 賤tiện 價giá 之chi 物vật 意ý 中trung 雖tuy 惜tích 不bất 大đại 慇ân 懃cần
"Cái chậu đã dùng để rửa chân, là đồ vật rẻ mạt. Trong lòng sẽ tiếc một chút nhưng chẳng lưu luyến gì."

佛Phật 語ngứ 羅La 雲Vân
Phật bảo Cần sách nam Phú Chướng:

汝nhữ 亦diệc 如như 是thị 雖tuy 為vi 沙Sa 門Môn 不bất 攝nhiếp 身thân 口khẩu 麤thô 言ngôn 惡ác 說thuyết 多đa 所sở 中trúng 傷thương 眾chúng 所sở 不bất 愛ái 智trí 者giả 不bất 惜tích 身thân 死tử 神thần 去khứ 輪luân 轉chuyển 三tam 塗đồ 自tự 生sanh 自tự 死tử 苦khổ 惱não 無vô 量lượng 諸chư 佛Phật 賢hiền 聖thánh 所sở 不bất 愛ái 惜tích 亦diệc 如như 汝nhữ 言ngôn 不bất 惜tích 澡táo 盤bàn
"Con cũng như thế. Tuy là một Đạo Nhân nhưng không thu nhiếp thân tâm, lời nói thô ác khiến tổn thương kẻ khác, mọi người chẳng thương mến và bậc trí chẳng kính trọng. Khi chết thần thức sẽ rời khỏi thân và luân chuyển trong ba đường ác, tự sanh tự diệt và chịu vô lượng khổ não. Chư Phật và hiền thánh sẽ chẳng thương mến hạng người này, cũng giống như con nói rằng chẳng luyến tiếc cái chậu vậy."

羅La 雲Vân 聞văn 之chi 慚tàm 愧quý 怖bố 悸quý
Khi nghe thế, Cần sách nam Phú Chướng cảm thấy hổ thẹn và run sợ.

佛Phật 告cáo 羅La 雲Vân
Phật bảo Cần sách nam Phú Chướng:

聽thính 我ngã 說thuyết 喻dụ
"Hãy nghe cha kể một thí dụ.

昔tích 有hữu 國quốc 王vương 有hữu 一nhất 大đại 象tượng 猛mãnh 黠hiệt 能năng 戰chiến 計kế 其kỳ 力lực 勢thế 勝thắng 五ngũ 百bách 小tiểu 象tượng
Thuở xưa có một quốc vương sở hữu một con voi to lớn. Nó rất dũng mãnh và có thể chiến đấu. Sức mạnh của nó vượt hơn 500 con voi nhỏ.

其kỳ 王vương 興hưng 軍quân 欲dục 伐phạt 逆nghịch 國quốc 被bị 象tượng 鐵thiết 鎧khải 象tượng 士sĩ 御ngự 之chi 以dĩ 雙song 矛mâu 戟kích 繫hệ 象tượng 兩lưỡng 牙nha 復phục 以dĩ 二nhị 劍kiếm 繫hệ 著trước 兩lưỡng 耳nhĩ 以dĩ 曲khúc 刃nhận 刀đao 繫hệ 象tượng 四tứ 脚cước 復phục 以dĩ 鐵thiết 撾qua 繫hệ 著trước 象tượng 尾vĩ 被bị 象tượng 九cửu 兵binh 皆giai 使sử 嚴nghiêm 利lợi 象tượng 雖tuy 藏tàng 鼻tị 護hộ 不bất 用dụng 鬪đấu 象tượng 士sĩ 歡hoan 喜hỷ 知tri 象tượng 護hộ 身thân 命mạng
Bấy giờ ông vua này khởi binh và muốn thảo phạt nước đối nghịch. Con voi được trang bị áo giáp sắt, có tượng sĩ chỉ huy ở trên, và hai cây giáo được buộc ở hai ngà voi. Lại dùng hai thanh kiếm buộc ở hai tai, dùng dao bén cong buộc ở bốn chân, và còn dùng mác sắt buộc ở đuôi voi. Toàn thân của voi lớn được buộc vào chín binh khí sắc bén vô cùng. Khi giao đấu, duy chỉ có cái vòi là voi che giấu và bảo hộ mà không sử dụng. Tượng sĩ vui mừng và biết voi đang bảo hộ thân mạng của nó.

所sở 以dĩ 者giả 何hà 象tượng 鼻tị 軟nhuyễn 脆thúy 中trúng 箭tiễn 即tức 死tử 是thị 以dĩ 不bất 出xuất 鼻tị 鬪đấu 耳nhĩ
Vì sao thế? Bởi cái vòi của voi rất mềm và mỏng. Nếu trúng tên thì nó sẽ chết ngay. Do đó nó không đưa vòi ra khi giao đấu vậy.

象tượng 鬪đấu 殊thù 久cửu 出xuất 鼻tị 求cầu 劍kiếm 象tượng 士sĩ 不bất 與dữ 念niệm 此thử 猛mãnh 象tượng 不bất 惜tích 身thân 命mạng 出xuất 鼻tị 求cầu 劍kiếm 欲dục 著trước 鼻tị 頭đầu 王vương 及cập 羣quần 臣thần 惜tích 此thử 大đại 象tượng 不bất 復phục 使sử 鬪đấu
Lúc bấy giờ voi đang chiến đấu quyết liệt đã lâu, nó bỗng nhiên đưa vòi ra để tìm thanh gươm. Thấy thế tượng sĩ không cho phép, và nghĩ rằng con voi dũng mãnh này chẳng luyến tiếc thân mạng mà đưa vòi ra để tìm thanh gươm và muốn quấn ở trước đầu vòi của nó. Nhà vua cùng quần thần đều thương tiếc và sợ con đại tượng này sẽ trúng thương nên chẳng còn bắt đi tác chiến nữa."

佛Phật 告cáo 羅La 雲Vân
Phật bảo Cần sách nam Phú Chướng:

人nhân 犯phạm 九cửu 惡ác 唯duy 當đương 護hộ 口khẩu 如như 此thử 大đại 象tượng 護hộ 鼻tị 不bất 鬪đấu
"Con người dù phạm chín loại nghiệp ác, nhưng nếu khéo gìn giữ lời nói thì vẫn có thể sống còn. Đây ví như con đại tượng kia bảo hộ cái vòi của nó mà không đưa ra khi giao đấu vậy.

所sở 以dĩ 然nhiên 者giả 畏úy 中trúng 箭tiễn 死tử
Vì sao thế? Bởi nó sợ cái vòi bị trúng tên thì sẽ chết ngay.

人nhân 亦diệc 如như 是thị 所sở 以dĩ 護hộ 口khẩu 當đương 畏úy 三tam 塗đồ 地địa 獄ngục 苦khổ 痛thống 十thập 惡ác 盡tận 犯phạm 不bất 護hộ 口khẩu 者giả 如như 此thử 大đại 象tượng 分phân 喪táng 身thân 命mạng 不bất 計kế 中trúng 箭tiễn 出xuất 鼻tị 鬪đấu 耳nhĩ
Con người cũng như thế. Cho nên phải gìn giữ lời nói, kinh sợ ba đường ác và những sự thống khổ ở địa ngục. Nếu mười nghiệp ác đều vi phạm và chẳng gìn giữ lời nói, thì cũng giống như con đại tượng kia tiêu tan cả thân mạng, chẳng màng bị trúng tên và đưa cái vòi ra khi giao đấu vậy.

人nhân 亦diệc 如như 是thị 十thập 惡ác 盡tận 犯phạm 不bất 惟duy 三tam 塗đồ 毒độc 痛thống 辛tân 苦khổ 若nhược 行hành 十Thập 善Thiện 攝nhiếp 口khẩu 身thân 意ý 眾chúng 惡ác 不bất 犯phạm 便tiện 可khả 得đắc 道Đạo 長trường 離ly 三tam 塗đồ 無vô 生sanh 死tử 患hoạn
Con người cũng như thế. Nếu ai tạo mười nghiệp ác và chẳng tư duy ba đường ác thì sẽ chịu thống khổ độc ác khôn lường. Còn nếu ai tu hành Mười Nghiệp Lành, thu nhiếp thân ngữ ý, và chẳng phạm các điều ác thì sẽ có thể đắc Đạo và vĩnh viễn lìa xa sanh tử ở ba đường ác.

於ư 是thị 世Thế 尊Tôn 即tức 說thuyết 偈kệ 言ngôn
Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:

我ngã 如như 象tượng 鬪đấu
不bất 恐khủng 中trúng 箭tiễn

常thường 以dĩ 誠thành 信tín

度độ 無vô 戒giới 人nhân


"Như voi lúc giao đấu
Chẳng sợ bị trúng tên
Luôn dùng lòng thành tín
Độ kẻ không giới đức

譬thí 象tượng 調điều 伏phục
可khả 中trung 王vương 乘thừa

調điều 為vi 尊tôn 人nhân

乃nãi 受thọ 誠thành 信tín


Ví như voi điều phục
Mới để cho vua cưỡi
Khéo điều làm hiền nhân
Mới được lời thành tín"

羅La 雲Vân 聞văn 佛Phật 懇khẩn 惻trắc 之chi 誨hối 感cảm 激kích 自tự 勵lệ 尅khắc 骨cốt 不bất 忘vong 精tinh 進tấn 和hòa 柔nhu 懷hoài 忍nhẫn 如như 地địa 識thức 想tưởng 寂tịch 靜tĩnh 得đắc 羅La 漢Hán 道Đạo
Khi nghe lời Phật dạy, Cần sách nam Phú Chướng thành khẩn sám hối và cảm động đến nước mắt bất chợt rơi xuống. Ngài khắc cốt ghi tâm, tinh tấn nhu hòa, lòng nhẫn như đại địa, tâm ý tịch tĩnh, và sau đó đắc Đạo Ưng Chân.




昔tích 佛Phật 在tại 舍Xá 衛Vệ 國Quốc 祇Kỳ 樹Thụ 精Tinh 舍Xá 為vì 四tứ 部bộ 弟đệ 子tử 天thiên 龍long 鬼quỷ 神thần 帝đế 王vương 臣thần 民dân 敷phu 演diễn 大đại 法Pháp
Thuở xưa Đức Phật diễn nói đại Pháp cho bốn chúng đệ tử, trời rồng quỷ thần, vua chúa, quân thần, và dân chúng ở vườn Cấp Cô Độc, trong Rừng cây Chiến Thắng gần thành Phong Đức.

時thời 有hữu 長trưởng 者giả 居cư 士sĩ 名danh 曰viết 呵Ha 提Đề 曇Đàm 來lai 詣nghệ 佛Phật 所sở 為vì 佛Phật 作tác 禮lễ 卻khước 坐tọa 一nhất 面diện 叉xoa 手thủ 長trường 跪quỵ 白bạch 世Thế 尊Tôn 曰viết
Bấy giờ có một trưởng giả cư sĩ tên là Thậm Pháp. Ông ta đến chỗ của Phật, đảnh lễ Phật, ngồi qua một bên, rồi hai gối quỳ, chắp tay, và thưa với Thế Tôn rằng:

久cửu 承thừa 洪hồng 化hóa 欽khâm 仰ngưỡng 奉phụng 顏nhan 逼bức 私tư 不bất 獲hoạch 願nguyện 垂thùy 慈từ 恕thứ
"[Thưa Thế Tôn!] Từ lâu đệ tử đã phụng hành giáo Pháp thâm sâu của Như Lai, nhưng vì chuyện nhà bề bộn nên mãi đến hôm nay mới được chiêm ngưỡng tôn nhan. Kính mong Ngài lượng tình tha thứ."

世Thế 尊Tôn 令lệnh 坐tọa 即tức 問vấn 所sở 從tùng 來lai 姓tánh 字tự 為vi 何hà
Thế Tôn bảo trưởng giả ngồi xuống và liền hỏi ông ta từ đâu đến đây và danh tánh là gì.

長trường 跪quỵ 答đáp 曰viết
Trưởng giả quỳ hai gối và thưa rằng:

本bổn 居cư 士sĩ 種chủng 字tự 呵Ha 提Đề 曇Đàm 乃nãi 先tiên 王vương 時thời 為vi 王vương 調điều 象tượng
"Dạ, con vốn thuộc dòng dõi cư sĩ, tên là Thậm Pháp. Xưa kia con từng làm người điều phục voi cho vị vua trước đây."

佛Phật 問vấn 居cư 士sĩ
Phật hỏi cư sĩ rằng:

調điều 象tượng 之chi 法pháp 有hữu 幾kỷ 事sự 乎hồ
"Phương pháp điều phục voi có bao nhiêu việc?"

答đáp 曰viết
Thưa rằng:

常thường 以dĩ 三tam 事sự 用dụng 調điều 大đại 象tượng 何hà 謂vị 為vi 三tam
"Dạ, luôn dùng ba việc để điều phục voi. Những gì là ba?

一nhất 者giả 剛cang 鈎câu 鈎câu 口khẩu 著trước 其kỳ 羈ki 靽bán 二nhị 者giả 減giảm 食thực 常thường 令linh 飢cơ 瘦sấu 三tam 者giả 捶chúy 杖trượng 加gia 其kỳ 楚sở 痛thống
1. dùng mõm sắt bọc miệng của nó lại
2. luôn giảm bớt thức ăn để khiến nó đói gầy
3. dùng gậy đánh đập để khiến nó đau đớn

以dĩ 此thử 三tam 事sự 乃nãi 得đắc 調điều 良lương
Dùng ba việc như thế mới có thể thuần phục voi."

又hựu 問vấn
Đức Phật lại hỏi rằng:

施thi 此thử 三tam 事sự 何hà 所sở 攝nhiếp 治trị 也dã
"Mục đích thi hành ba việc đó sẽ chế trị điều gì?"

曰viết
Thưa rằng:

鐵thiết 鈎câu 鈎câu 口khẩu 以dĩ 制chế 強cưỡng 口khẩu 不bất 與dữ 食thực 飲ẩm 以dĩ 制chế 身thân 獷quánh 如như 捶chúy 杖trượng 者giả 以dĩ 伏phục 其kỳ 心tâm 正chánh 爾nhĩ 便tiện 調điều
"Dạ, dùng mõm sắt bọc miệng để khống chế miệng voi. Không cho ăn uống để chế phục thân hung ác. Dùng gậy đánh đập để chế phục ý của nó. Với ba cách này thì voi sẽ lập tức thuần phục."

曰viết
Đức Phật hỏi rằng:

作tác 此thử 伏phục 者giả 為vi 何hà 所sở 施thi 用dụng
"Điều phục voi như thế để làm gì?"

答đáp 曰viết
Thưa rằng:

如như 是thị 伏phục 已dĩ 可khả 中trung 王vương 乘thừa 亦diệc 可khả 令lệnh 鬪đấu 隨tùy 意ý 前tiền 卻khước 無vô 有hữu 罣quái 礙ngại
"Sau khi voi đã thuần phục thì nó mới có thể để cho vua cưỡi. Lại cũng có thể đưa nó ra trận, tiến lui tùy ý và không bị trở ngại."

又hựu 問vấn 居cư 士sĩ
Đức Phật lại hỏi cư sĩ:

正chánh 有hữu 此thử 法pháp 復phục 有hữu 其kỳ 異dị
"Ngoài phương pháp này còn có cách nào khác chăng?"

答đáp 曰viết
Thưa rằng:

調điều 象tượng 之chi 法pháp 正chánh 如như 此thử 耳nhĩ
"Dạ, phương pháp điều phục voi chỉ có thế thôi!"

佛Phật 告cáo 居cư 士sĩ
Phật bảo cư sĩ rằng:

但đãn 能năng 調điều 象tượng 復phục 能năng 自tự 調điều
"Ông chỉ có thể điều phục voi mà chẳng thể điều phục chính mình."

即tức 曰viết
Thưa rằng:

不bất 審thẩm 自tự 調điều 其kỳ 義nghĩa 云vân 何hà 唯duy 願nguyện 世Thế 尊Tôn 彰chương 演diễn 未vị 聞văn
"Dạ, chẳng hay điều phục chính mình nghĩa là sao? Kính mong Thế Tôn hãy nói rõ cho con nghe."

佛Phật 告cáo 居cư 士sĩ
Phật bảo cư sĩ rằng:

吾ngô 亦diệc 有hữu 三tam 事sự 用dụng 調điều 一nhất 切thiết 人nhân 亦diệc 以dĩ 自tự 調điều 得đắc 至chí 無vô 為vi
"Ta cũng có ba việc để điều phục tất cả chúng sanh, và cũng dùng nó để điều phục chính mình đạt tới vô vi.

一nhất 者giả 至chí 誠thành 制chế 御ngự 口khẩu 業nghiệp 二nhị 以dĩ 慈từ 貞trinh 伏phục 身thân 剛cang 強cường 三tam 以dĩ 智trí 慧tuệ 滅diệt 意ý 癡si 蓋cái
1. dùng chí thành chế ngự ngữ nghiệp
2. dùng từ bi chế phục thân cang cường
3. dùng trí tuệ diệt ý niệm si mê

持trì 是thị 三tam 事sự 度độ 脫thoát 一nhất 切thiết 離ly 三tam 惡ác 道đạo 自tự 致trí 無vô 為vi 不bất 遭tao 生sanh 死tử 憂ưu 悲bi 苦khổ 惱não
Ta dùng ba việc này mà độ thoát tất cả chúng sanh, khiến họ lìa ba đường ác, tự đạt đến vô vi, và chẳng còn thọ sanh tử để chịu ưu sầu khổ não."

於ư 是thị 世Thế 尊Tôn 即tức 說thuyết 偈kệ 言ngôn
Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:

如như 象tượng 名danh 護Hộ 財Tài
猛mãnh 害hại 難nan 禁cấm 制chế

繫hệ 靽bán 不bất 與dữ 食thực

而nhi 猶do 慕mộ 逸dật 象tượng


"Như voi tên Hộ Tài
Hung mãnh khó điều phục
Trói chân không cho ăn
Do bởi voi hung bạo

本bổn 意ý 為vi 純thuần 行hành
及cập 常thường 行hành 所sở 安an

悉tất 捨xả 降hàng 結kết 使sử

如như 鈎câu 制chế 象tượng 調điều


Bổn tâm đã thuần thục
Và luôn được an lành
Tất sẽ cởi bỏ trói
Như móc sắt phục voi

樂nhạo 道Đạo 不bất 放phóng 逸dật
能năng 常thường 自tự 護hộ 心tâm

是thị 為vi 拔bạt 身thân 苦khổ

如như 象tượng 出xuất 于vu 陷hãm


Tu Đạo chớ buông lung
Khéo luôn hộ tâm mình
Tất sẽ lìa ách khổ
Như voi ra khỏi bẫy

雖tuy 為vi 常thường 調điều
如như 彼bỉ 新tân 馳trì

亦diệc 最tối 善thiện 象tượng

不bất 如như 自tự 調điều


Dù ai giỏi huấn luyện
Như khéo huấn luyện ngựa
Lại khéo huấn luyện voi
Đâu bằng điều phục mình

彼bỉ 不bất 能năng 適thích
人nhân 所sở 不bất 至chí

唯duy 自tự 調điều 者giả

能năng 到đáo 調điều 方phương


Kẻ kia chẳng thể chở
Lại cũng chẳng thể đến
Chỉ ai tự điều phục
Mới đến nơi an lành"

居cư 士sĩ 聞văn 偈kệ 喜hỷ 慶khánh 難nan 量lương 內nội 情tình 解giải 釋thích 即tức 得đắc 法Pháp 眼nhãn 聽thính 者giả 無vô 數số 皆giai 得đắc 道Đạo 迹tích
Khi nghe kệ xong, trưởng giả vui mừng khôn xiết, tâm ý khai mở, và liền được Pháp nhãn thanh tịnh. Bấy giờ có vô số người đến nghe Pháp cũng đều thấy dấu Đạo.

愛Ái 欲Dục 品Phẩm 第đệ 三tam 十thập 二nhị
Phẩm 32: Ái Dục (phần 1)


昔tích 佛Phật 在tại 羅La 閱Duyệt 祇Kỳ 國Quốc 耆Kỳ 闍Xà 崛Quật 山Sơn 精tinh 舍xá 之chi 中trung 為vì 天thiên 人nhân 龍long 鬼quỷ 轉chuyển 大đại 法Pháp 輪luân
Thuở xưa Đức Phật chuyển đại Pháp luân cho trời, người, rồng và quỷ thần ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá.

時thời 有hữu 一nhất 人nhân 捨xả 家gia 妻thê 子tử 來lai 至chí 佛Phật 所sở 為vì 佛Phật 作tác 禮lễ 求cầu 為vi 沙Sa 門Môn 佛Phật 即tức 受thọ 之chi 令linh 作tác 沙Sa 門Môn 命mệnh 令linh 樹thụ 下hạ 坐tọa 思tư 惟duy 道Đạo 德đức 比Bỉ 丘Khâu 受thọ 教giáo 便tiện 入nhập 深thâm 山sơn 去khứ 精tinh 舍xá 百bách 餘dư 里lý 獨độc 坐tọa 樹thụ 間gian 思tư 道Đạo 三tam 年niên 心tâm 不bất 堅kiên 固cố 意ý 欲dục 退thoái 還hoàn
Bấy giờ có một người lìa bỏ vợ con đi đến chỗ của Phật, rồi đảnh lễ Phật và xin làm Đạo Nhân. Đức Phật liền thu nhận để trở thành Đạo Nhân. Sau đó Thế Tôn bảo ông ấy đến ngồi ở dưới gốc cây để tư duy về Đạo. Vị Bhikṣu vâng lời Phật dạy, liền vào núi sâu, cách tinh xá hơn 100 dặm, và một mình ngồi ở dưới gốc cây. Suốt ba năm tư duy về Đạo mà tâm ngài chẳng thể kiên cố và ý muốn thoái lui.

自tự 念niệm
Một hôm ngài nghĩ thầm:

捨xả 家gia 求cầu 道Đạo 勤cần 苦khổ 不bất 如như 早tảo 歸quy 見kiến 我ngã 妻thê 子tử
"Mình đã lìa bỏ gia đình để cầu Đạo và phải chịu bao gian khổ, chi bằng hãy sớm trở về nhà để gặp lại vợ con."

作tác 此thử 念niệm 已dĩ 便tiện 起khởi 出xuất 山sơn 佛Phật 以dĩ 聖thánh 達đạt 見kiến 此thử 比Bỉ 丘Khâu 應ưng 當đương 得đắc 道Đạo 愚ngu 故cố 還hoàn 歸quy 佛Phật 以dĩ 神thần 足túc 化hóa 作tác 沙Sa 門Môn 便tiện 往vãng 逆nghịch 之chi
Khi đã khởi niệm này rồi, ngài liền hạ sơn. Với trí tuệ của Ba Minh, Đức Phật thấy vị Bhikṣu này đáng được hóa độ và sắp đắc Đạo, chỉ vì ngu muội nhất thời nên mới muốn trở về nhà. Đức Phật dùng thần túc biến hóa làm một vị Đạo Nhân và đi ngược hướng.

道đạo 路lộ 相tương 見kiến 化hóa 人nhân 即tức 問vấn 所sở 從tùng 來lai 也dã
Ở giữa đường gặp nhau, hóa nhân liền hỏi từ đâu đến.

此thử 地địa 平bình 坦thản 可khả 共cộng 坐tọa 語ngữ
"Chỗ đất này bằng phẳng, chúng ta có thể ngồi xuống và hãy cùng nhau chuyện trò!"

於ư 是thị 二nhị 人nhân 便tiện 坐tọa 息tức 語ngữ
Và thế là hai người họ liền ngồi xuống nghỉ ngơi cùng trò chuyện.

即tức 答đáp 化hóa 人nhân
Vị Bhikṣu tâm sự với hóa nhân rằng:

吾ngô 捨xả 家gia 妻thê 子tử 求cầu 作tác 沙Sa 門Môn 處xử 此thử 深thâm 山sơn 不bất 能năng 得đắc 道Đạo 與dữ 妻thê 子tử 別biệt 不bất 如như 本bổn 願nguyện 唐đường 喪táng 我ngã 命mạng 勞lao 而nhi 無vô 獲hoạch 今kim 欲dục 悔hối 還hoàn 見kiến 我ngã 妻thê 子tử 快khoái 相tương 娛ngu 樂lạc 後hậu 更cánh 作tác 計kế
"Xưa tôi lìa bỏ vợ con để trở thành Đạo Nhân, và tu hành trong núi sâu đã lâu mà chẳng thể đắc Đạo. Tôi biệt ly vợ con và chịu biết bao gian khổ, chỉ uổng công phí sức mà bổn nguyện không thành. Nay tôi muốn hoàn tục để trở về gặp vợ con và sum họp quây quần, rồi sau này tính tiếp."

須tu 臾du 之chi 間gian 有hữu 老lão 獼mi 猴hầu 久cửu 已dĩ 遠viễn 離ly 樹thụ 木mộc 之chi 間gian 在tại 無vô 樹thụ 之chi 處xứ 於ư 中trung 生sanh 活hoạt
Trong chốc lát thì có một con khỉ già xuất hiện. Từ lâu nó rời xa khu rừng và đến sinh sống ở nơi không một bóng cây.

化hóa 沙Sa 門Môn 問vấn 此thử 比Bỉ 丘Khâu
Hóa Đạo Nhân hỏi vị Bhikṣu rằng:

是thị 獼mi 猴hầu 何hà 故cố 獨độc 在tại 平bình 地địa 無vô 有hữu 樹thụ 木mộc 云vân 何hà 樂nhạo 此thử
"Vì sao con khỉ đó ở một mình nơi đất trống? Nó thích thú điều gì ở nơi chẳng có cây cối như thế?"

比Bỉ 丘Khâu 答đáp 化hóa 人nhân 言ngôn
Vị Bhikṣu trả lời hóa Đạo Nhân rằng:

我ngã 久cửu 見kiến 此thử 獼mi 猴hầu 以dĩ 二nhị 事sự 故cố 來lai 住trú 此thử 耳nhĩ
"Từ lâu tôi đã thấy con khỉ này rồi. Có hai nguyên nhân mà nó đến sống ở đây.

何hà 等đẳng 為vi 二nhị
Những gì là hai?

一nhất 以dĩ 妻thê 子tử 眷quyến 屬thuộc 群quần 多đa 不bất 得đắc 飲ẩm 食thực 快khoái 樂lạc 恣tứ 口khẩu
1. Vợ con quyến thuộc của đàn khỉ quá nhiều nên không được ăn uống thỏa thích.

二nhị 常thường 晝trú 夜dạ 上thượng 下hạ 樹thụ 木mộc 脚cước 底để 穿xuyên 壞hoại 不bất 得đắc 寧ninh 息tức
2. Suốt ngày lẫn đêm phải leo lên và tuột xuống cây nên gót chân bị tổn thương, và không lúc nào được thảnh thơi.

以dĩ 此thử 二nhị 事sự 故cố 捨xả 樹thụ 木mộc 來lai 住trú 是thị 間gian
Bởi hai nguyên nhân này mà nó từ bỏ rừng cây và đến sống ở đây."

二nhị 人nhân 語ngứ 頃khoảnh 復phục 見kiến 獼mi 猴hầu 走tẩu 還hoàn 上thượng 樹thụ
Hóa Đạo Nhân và vị Bhikṣu đang trò chuyện một lát thì lại thấy con khỉ chạy trở về và leo trên cây.

化hóa 沙Sa 門Môn 語ngứ 比Bỉ 丘Khâu 言ngôn
Hóa Đạo Nhân nói với vị Bhikṣu rằng:

汝nhữ 見kiến 獼mi 猴hầu 還hoàn 趣thú 樹thụ 木mộc 不phủ 也dã
"Thầy có thấy con khỉ quay trở về với rừng cây chăng?"

答đáp 曰viết
Đáp rằng:

見kiến 之chi 此thử 虫trùng 愚ngu 癡si 得đắc 離ly 樹thụ 木mộc 群quần 從tùng 憒hội 閙náo 不bất 厭yếm 勞lao 煩phiền 而nhi 還hoàn 入nhập 中trung
"Thấy chứ! Con khỉ này thật ngu si! Nó đã rời bỏ chỗ ồn ào của đàn khỉ trong rừng cây, nhưng giờ nó lại chẳng nhàm chán phiền não mà còn quay trở về."

化hóa 人nhân 復phục 言ngôn
Hóa nhân lại nói rằng:

卿khanh 亦diệc 如như 是thị 與dữ 此thử 獼mi 猴hầu 復phục 何hà 異dị 矣hĩ 卿khanh 本bổn 以dĩ 二nhị 事sự 故cố 來lai 入nhập 此thử 山sơn 中trung
"Thầy cũng vậy thôi! Tình huống giữa thầy và con khỉ có khác gì đâu. Xưa thầy cũng vì hai việc nên mới vào sống trong núi này.

何hà 等đẳng 為vi 二nhị
Những gì là hai?

一nhất 以dĩ 妻thê 婦phụ 舍xá 宅trạch 為vi 牢lao 獄ngục 故cố 二nhị 以dĩ 兒nhi 子tử 眷quyến 屬thuộc 為vi 桎trất 梏cốc 故cố
1. Thầy xem vợ con nhà cửa tựa như lao ngục.
2. Thầy xem con cái quyến thuộc giống như gông cùm.

卿khanh 以dĩ 是thị 故cố 來lai 索sách 求cầu 道Đạo 斷đoạn 生sanh 死tử 苦khổ 方phương 欲dục 歸quy 家gia 還hoàn 著trước 桎trất 梏cốc 入nhập 牢lao 獄ngục 中trung 恩ân 愛ái 戀luyến 慕mộ 徑kính 趣thú 地địa 獄ngục
Sở dĩ thầy xuất gia tu Đạo là hy vọng có thể đoạn trừ nỗi khổ của sanh tử. Nhưng bây giờ thầy muốn về nhà, quay lại chỗ xiềng xích và vào trong lao ngục. Thầy quyến luyến ái ân và đang lao vào địa ngục đó."

化hóa 沙Sa 門Môn 即tức 現hiện 相tướng 好hảo 丈trượng 六lục 金kim 色sắc 光quang 明minh 普phổ 照chiếu 感cảm 動động 一nhất 山sơn 飛phi 鳥điểu 走tẩu 獸thú 尋tầm 光quang 而nhi 來lai 皆giai 識thức 宿túc 命mạng 心tâm 內nội 悔hối 過quá
Hóa Đạo Nhân liền hiện thân tướng sắc vàng cao một trượng sáu và quang minh chiếu khắp núi rừng. Khi ấy các loài chim thú đều theo ánh sáng mà đến. Bấy giờ chúng đều tự biết những việc của đời trước và trong lòng sám hối lỗi lầm.

於ư 是thị 世Thế 尊Tôn 即tức 說thuyết 偈kệ 言ngôn
Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:

如như 樹thụ 根căn 深thâm 固cố
雖tuy 截tiệt 猶do 復phục 生sanh

愛ái 意ý 不bất 盡tận 除trừ

輒triếp 當đương 還hoàn 受thọ 苦khổ


"Như rễ cây sâu chắc
Dù chặt vẫn mọc lên
Tâm ái không trừ sạch
Liền sẽ lại thọ khổ

獼mi 猴hầu 如như 離ly 樹thụ
得đắc 脫thoát 復phục 趣thú 樹thụ

眾chúng 人nhân 亦diệc 如như 是thị

出xuất 獄ngục 復phục 入nhập 獄ngục


Như khỉ rời khỏi cây
Rồi lại đến cây khác
Phàm phu cũng như thế
Thoát ngục lại vào ngục

貪tham 意ý 為vi 常thường 流lưu
習tập 與dữ 憍kiêu 慢mạn 并tinh

思tư 想tưởng 猗ỷ 婬dâm 欲dục

自tự 覆phú 無vô 所sở 見kiến


Ý tham luôn chảy mãi
Ác tập với kiêu mạn
Tư tưởng bám tham dục
Tự che chẳng thể thấy

一nhất 切thiết 意ý 流lưu 衍diễn
愛ái 結kết 如như 葛cát 藤đằng

唯duy 慧tuệ 分phân 別biệt 見kiến

能năng 斷đoạn 意ý 根căn 源nguyên


Tất cả dòng ý chảy
Ái siết như dây sắn
Duy tuệ phân biệt thấy
Khéo đoạn gốc của ý

夫phù 從tùng 愛ái 潤nhuận 澤trạch
思tư 想tưởng 為vi 滋tư 蔓mạn

愛ái 欲dục 深thâm 無vô 底để

老lão 死tử 是thị 用dụng 增tăng


Người bị ái thấm ướt
Tư tưởng càng lan xa
Ái dục sâu không đáy
Già chết chỉ tăng thêm"

比Bỉ 丘Khâu 見kiến 佛Phật 光quang 相tướng 炳bỉnh 著trước 又hựu 聞văn 偈kệ 言ngôn 悚tủng 然nhiên 戰chiến 慄lật 五ngũ 體thể 投đầu 地địa 懺sám 悔hối 謝tạ 過quá 內nội 自tự 改cải 責trách 即tức 便tiện 卻khước 息tức 數số 隨tùy 止Chỉ 觀Quán 在tại 於ư 佛Phật 前tiền 逮đãi 得đắc 應Ưng 真Chân 諸chư 天thiên 來lai 聽thính 聞văn 皆giai 歡hoan 喜hỷ 散tán 華hoa 供cúng 養dường 稱xưng 善thiện 無vô 量lượng
Khi thấy quang minh tướng hảo rực rỡ của Phật và lại nghe được kệ, vị Bhikṣu run rẩy sợ hãi, rồi cúi đầu đảnh lễ với năm điểm chạm đất, cầu xin sám hối, trong lòng tự trách và sửa đổi. Lúc đó vọng niệm của ngài dừng nghỉ, rồi tu trì Chỉ Quán và liền đắc Đạo Ưng Chân ở trước Phật. Bấy giờ chư thiên đến nghe Pháp thảy đều hoan hỷ. Họ rải hoa cúng dường và ngợi khen vô lượng.




昔tích 羅La 閱Duyệt 祇Kỳ 南nam 四tứ 千thiên 里lý 有hữu 國quốc 奉phụng 事sự 梵Phạm 志Chí 數sổ 千thiên 人nhân 時thời 國quốc 大đại 旱hạn 三tam 年niên 不bất 雨vũ 禱đảo 祠từ 諸chư 神thần 無vô 所sở 不bất 遍biến 王vương 問vấn 梵Phạm 志Chí 問vấn 其kỳ 所sở 由do
Thuở xưa có một quốc gia cách thành Vương Xá khoảng 4.000 dặm về hướng nam. Nhân dân ở trong nước này phụng sự khoảng vài ngàn Phạm Chí. Bấy giờ trong nước có trận hạn hán khắc nghiệt kéo dài đến ba năm mà không một giọt mưa. Nhà vua đến khắp miếu đền để cầu cúng các vị thần linh nhưng đều chẳng linh nghiệm. Khi ấy nhà vua hỏi các Phạm Chí về nguyên nhân của việc đó.

諸chư 梵Phạm 志Chí 言ngôn
Các Phạm Chí tâu rằng:

吾ngô 等đẳng 當đương 齋trai 戒giới 訖ngật 竟cánh 當đương 遣khiển 人nhân 與dữ 梵Phạm 天Thiên 相tương 聞văn 問vấn 其kỳ 災tai 異dị
"[Tâu đại vương!] Sau khi chúng tôi trì trai giới xong thì cũng sẽ sai người đến hỏi Phạm Thiên về sự thiên tai khác thường này."

王vương 言ngôn
Nhà vua nói rằng:

大đại 善thiện 齋trai 戒giới 所sở 乏phạp 願nguyện 見kiến 告cáo 示thị
"Rất tốt! Khi các vị cử hành thọ trì trai giới, nếu có cần gì xin hãy nói cho trẫm biết."

諸chư 梵Phạm 志Chí 言ngôn
Các Phạm Chí tâu rằng:

當đương 得đắc 二nhị 十thập 車xa 薪tân 酥tô 蜜mật 膏cao 油du 華hoa 香hương 旛phan 蓋cái 金kim 銀ngân 祭tế 器khí 盡tận 用dụng 須tu 之chi
"[Tâu đại vương!] Chúng tôi cần 20 xe củi, mật ong dầu bơ, hương hoa, cờ hiệu, lọng che, và những đồ vật cúng tế bằng vàng bạc; tất cả đều chẳng thể thiếu."

王vương 即tức 辦biện 送tống 出xuất 至chí 城thành 外ngoại 去khứ 城thành 七thất 里lý 平bình 廣quảng 之chi 地địa 積tích 薪tân 如như 山sơn 共cộng 相tương 推thôi 獎tưởng 其kỳ 有hữu 不bất 惜tích 身thân 者giả 終chung 生sanh 梵Phạm 天Thiên 選tuyển 得đắc 七thất 人nhân 當đương 就tựu 火hỏa 燒thiêu 遣khiển 至chí 梵Phạm 天Thiên 七thất 人nhân 受thọ 祭tế 咒chú 願nguyện 訖ngật 踧địch 使sử 上thượng 薪tân 從tùng 下hạ 放phóng 火hỏa 當đương 燒thiêu 殺sát 之chi 烟yên 焰diễm 烔đồng 然nhiên 熱nhiệt 氣khí 直trực 至chí 七thất 人nhân 惶hoàng 懼cụ 左tả 右hữu 求cầu 救cứu 無vô 有hữu 救cứu 者giả
Nhà vua liền cung cấp đầy đủ vật dụng và đưa chúng ra ngoài thành ở một chỗ đất bằng phẳng, cách thành khoảng bảy dặm, rồi chất những đống củi cao như núi. Sau đó các Phạm Chí cùng nhau cổ vũ, rằng nếu ai chẳng tiếc thân mạng thì sẽ vĩnh viễn sanh lên cõi Phạm Thiên. Kết quả họ tuyển được bảy người tự nguyện hỏa thiêu để sai đi gặp Phạm Thiên. Sau khi bảy người ấy đã được chú nguyện, họ được đặt ở trên giàn củi, rồi các Phạm Chí sai người đốt lửa ở dưới để thiêu sống cúng tế. Khi khói lửa bốc cháy và hơi nóng áp thẳng vào mặt, bảy người họ kinh hoàng và xin tha mạng nhưng chẳng một ai giúp cả.

舉cử 聲thanh 曰viết
Họ đồng thanh cầu cứu rằng:

三tam 界giới 之chi 中trung 寧ninh 有hữu 大đại 慈từ 愍mẫn 念niệm 我ngã 厄ách 者giả 願nguyện 受thọ 自tự 歸quy
"Trong ba cõi, ai có lòng đại từ mà thương xót cứu tôi ra khỏi ách nạn này thì tôi xin quy y."

佛Phật 遙diêu 知tri 之chi 尋tầm 聲thanh 往vãng 救cứu 在tại 虛hư 空không 中trung 顯hiển 現hiện 相tướng 好hảo
Đức Phật từ xa nghe tiếng cầu cứu của họ nên liền đến. Ngài đứng giữa hư không và hiện ra tướng hảo uy nghiêm.

七thất 人nhân 見kiến 佛Phật 悲bi 喜hỷ 跳khiêu 踊dũng
Khi thấy Phật, bảy người họ mừng rỡ khôn xiết và van xin rằng:

唯duy 願nguyện 自tự 歸quy 救cứu 我ngã 痛thống 熱nhiệt
"Con xin nguyện quy y! Cầu mong Ngài hãy cứu con thoát khỏi bị lửa thiêu đốt!"

於ư 是thị 世Thế 尊Tôn 即tức 說thuyết 偈kệ 言ngôn
Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:

或hoặc 多đa 自tự 歸quy
山sơn 川xuyên 樹thụ 神thần

厝thố 立lập 圖đồ 像tượng

禱đảo 祠từ 求cầu 福phước


"Nhiều người đi nương tựa
Thần cây thần sông núi
Xây miếu vẽ hình tượng
Cúng tế cầu xin phước

自tự 歸quy 如như 是thị
非phi 吉cát 非phi 上thượng

彼bỉ 不bất 能năng 來lai

度độ 汝nhữ 眾chúng 苦khổ


Nương tựa nơi như thế
Chẳng an chẳng tối thượng
Bởi thần không thể đến
Diệt trừ khổ của ta

如như 有hữu 自tự 歸quy
佛Phật 法Pháp 僧Tăng 眾chúng

道Đạo 德đức 四Tứ 諦Đế

必tất 見kiến 正chánh 慧tuệ


Nếu ai Quy Y Phật
Quy Y Pháp cùng Tăng
Tu tập Bốn Thánh Đế
Tất thấy chân trí tuệ

生sanh 死tử 極cực 苦khổ
從tùng 諦Đế 得đắc 度độ

度độ 世thế 八bát 難nạn

斯tư 除trừ 眾chúng 苦khổ


Sanh tử chốn nhọc nhằn
Độ thoát nhờ Bốn Đế
Độ đời Tám Chánh Đạo
Diệt trừ mọi khổ đau

自tự 歸quy 三Tam 尊Tôn
最tối 吉cát 最tối 上thượng

唯duy 獨độc 有hữu 是thị

度độ 一nhất 切thiết 苦khổ


Quy y nơi Tam Bảo
Tối thượng cát tường nhất
Duy chỉ Phật Pháp Tăng
Mới trừ mọi khổ đau"

佛Phật 說thuyết 渴khát 訖ngật 火hỏa 聲thanh 尋tầm 滅diệt 七thất 人nhân 獲hoạch 安an 心tâm 喜hỷ 無vô 量lượng 梵Phạm 志Chí 國quốc 人nhân 莫mạc 不bất 驚kinh 悚tủng 仰ngưỡng 瞻chiêm 世Thế 尊Tôn 光quang 相tướng 赫hách 奕dịch 分phân 身thân 散tán 體thể 東đông 沒một 西tây 現hiện 存tồn 亡vong 自tự 由do 身thân 出xuất 水thủy 火hỏa 五ngũ 色sắc 晃hoảng 昱dục 眾chúng 人nhân 見kiến 之chi 五ngũ 體thể 歸quy 命mạng
Sau khi Phật nói bài kệ thanh lương, lửa dần dần tắt. Bảy người họ được an ổn và lòng hoan hỷ vô lượng. Phạm Chí và dân chúng trong nước, không ai là chẳng kinh sợ, và ai nấy đều chiêm ngưỡng quang minh tướng hảo hiển hách của Thế Tôn. Lúc ấy Đức Phật từ một thân phân ra thành nhiều thân. Ngài ẩn mất ở phương đông rồi hiện ra ở phương tây, đi đứng nằm ngồi tự tại. Phần trên của thân vọt ra nước, còn phần dưới của thân phun ra lửa, hoặc ngược lại. Ngài lại phóng ra ánh sáng rực rỡ năm màu. Khi mọi người nhìn thấy, họ cúi đầu đảnh lễ với năm điểm chạm đất và xin quy y.

於ư 是thị 七thất 人nhân 從tùng 薪tân 下hạ 出xuất 悲bi 喜hỷ 交giao 集tập 而nhi 說thuyết 偈kệ 言ngôn
Bấy giờ bảy người kia từ giàn củi bước xuống, họ vừa mừng vừa sợ, rồi liền nói kệ rằng:

見kiến 聖thánh 人nhân 快khoái
得đắc 依y 附phụ 快khoái

得đắc 離ly 愚ngu 人nhân

為vi 善thiện 獨độc 快khoái


"Vui thay thấy thánh nhân
Vui thay được nương tựa
Lìa xa kẻ ngu mê
Tu thiện tự an vui

守thủ 正chánh 見kiến 快khoái
互hỗ 說thuyết 法Pháp 快khoái

與dữ 世thế 無vô 諍tranh

戒giới 具cụ 常thường 快khoái


Vui thay trì Chánh Đạo
Vui thay thuyết giảng Pháp
Với đời không đua tranh
Giữ giới luôn an vui

使sử 賢hiền 居cư 快khoái
如như 親thân 親thân 會hội

近cận 仁nhân 智trí 者giả

多đa 聞văn 高cao 遠viễn


Sống cùng với thánh hiền
Vui như gặp người thân
Gần gũi bậc trí tuệ
Đa văn đức cao thâm"

於ư 是thị 七thất 人nhân 說thuyết 此thử 偈kệ 已dĩ 及cập 諸chư 梵Phạm 志Chí 願nguyện 為vi 弟đệ 子tử 佛Phật 即tức 受thọ 之chi 皆giai 為vi 沙Sa 門Môn 得đắc 羅La 漢Hán 道Đạo 國quốc 王vương 臣thần 民dân 咸hàm 各các 修tu 道Đạo 天thiên 尋tầm 大đại 雨vũ 國quốc 豐phong 民dân 寧ninh 道Đạo 化hóa 興hưng 隆long 莫mạc 不bất 樂nhạo 聞văn
Lúc bảy người kia nói những bài kệ này xong, họ cùng với các Phạm Chí xin làm đệ tử. Đức Phật liền thu nhận để trở thành Đạo Nhân, rồi họ đều đắc Đạo Ưng Chân. Khi ấy quốc vương, quần thần, và dân chúng thảy đều kính tin tu Đạo. Bấy giờ trời đổ cơn mưa lớn, quốc thái dân an, Đạo Pháp hưng thịnh và không ai là chẳng thích nghe.

法Pháp 句Cú 譬Thí 喻Dụ 經Kinh 卷quyển 第đệ 三tam
Kinh Pháp Cú Thí Dụ ♦ Hết quyển 3

晉Tấn 世Thế 法Pháp 師Sư 法Pháp 炬Cự 共cộng 法Pháp 立Lập 譯dịch
Dịch sang cổ văn: Pháp sư Pháp Cự và Pháp sư Pháp Lập ở Thế Kỷ 4
Dịch sang tiếng Việt: Tại gia Bồ-tát giới Thanh tín nam Nguyên Thuận
Phiên âm và chấm câu: Tại gia Bồ-tát giới Thanh tín nam Nguyên Thuận
Phiên âm: 9/5/2014 ◊ Dịch nghĩa: 27/9/2015 ◊ Cập nhật: 26/4/2023

Cách đọc âm tiếng Phạn

Bhikṣu: bíc su
Tāmra: tam ra
Bhikṣuṇī: bíc su ni
Đang dùng phương ngữ: BắcNam