法Pháp 句Cú 譬Thí 喻Dụ 經Kinh 卷quyển 第đệ 四tứ
Kinh Pháp Cú Thí Dụ ♦ Quyển 4

喻Dụ 愛Ái 欲Dục 品Phẩm 第đệ 三tam 十thập 二nhị 之chi 二nhị
Phẩm 32: Ái Dục (phần 2)


昔tích 佛Phật 在tại 舍Xá 衛Vệ 國Quốc為vì 天thiên 人nhân 說thuyết 法Pháp時thời 城thành 中trung有hữu 婆Bà 羅La 門Môn 長trưởng 者giả財tài 富phú 無vô 數số為vi 人nhân 慳san 貪tham不bất 好hiếu 布bố 施thí食thực 常thường 閉bế 門môn不bất 喜hỷ 人nhân 客khách若nhược 其kỳ 食thực 時thời輒triếp 勅sắc 門môn 士sĩ堅kiên 閉bế 門môn 戶hộ勿vật 令linh 有hữu 人nhân妄vọng 入nhập 門môn 裏lý乞khất 丐cái 求cầu 索sách沙Sa 門Môn 梵Phạm 志Chí不bất 能năng 得đắc 與dữ 其kỳ 相tương 見kiến
Vào thời Đức Phật thuyết Pháp cho hàng trời người ở thành Phong Đức, bấy giờ trong thành có một Phạm Chí trưởng giả giàu sang vô cùng. Tuy nhiên ông rất keo kiệt, chẳng ưa bố thí, lúc ăn luôn đóng cổng nhà và không vui thích gặp người qua lại. Nếu khi đến giờ ăn, ông liền sai cho kẻ giữ cửa đóng chặt cổng để khỏi có ai vào trong. Đạo Nhân, Phạm Chí, hay những kẻ ăn xin đều chẳng thể nào gặp được ông ta.

爾nhĩ 時thời 長trưởng 者giả欻hốt 思tư 美mỹ 食thực便tiện 勅sắc 其kỳ 妻thê令linh 作tác 飯phạn 食thực教giáo 殺sát 肥phì 雞kê薑khương 椒tiêu 和hòa 調điều炙chích 之chi 令linh 熟thục飲ẩm 食thực 飣đính 餖đậu即tức 時thời 已dĩ 辦biện勅sắc 外ngoại 閉bế 門môn夫phu 婦phụ 二nhị 人nhân 坐tọa一nhất 小tiểu 兒nhi著trước 聚tụ 中trung 央ương便tiện 共cộng 飲ẩm 食thực父phụ 母mẫu 取thủ 雞kê 肉nhục著trước 兒nhi 口khẩu 中trung如như 是thị 數số 過quá初sơ 不bất 肯khẳng 廢phế
Một hôm ông trưởng giả bỗng nhiên thèm ăn ngon. Ông sai vợ đi giết một con gà béo mập để làm bữa cơm thịnh soạn. Vợ ông lấy gừng và tiêu để ướp thịt gà, rồi mang đi nướng chín. Khi thức ăn nước uống được dọn lên tươm tất, ông sai người đóng cổng ngoài. Hai vợ chồng ngồi xuống và đặt đứa con nhỏ ở giữa, rồi cùng nhau ăn uống. Hai vợ chồng cứ thay phiên liên tục lấy thịt gà bỏ vào miệng của đứa bé.

佛Phật 知tri 此thử 長trưởng 者giả宿túc 福phước 應ưng 度độ化hóa 作tác 沙Sa 門Môn伺tứ 其kỳ 坐tọa 食thực現hiện 出xuất 坐tọa 前tiền咒chú 願nguyện 且thả 言ngôn
Đức Phật biết phước đức của trưởng giả ở đời trước và đáng được hóa độ, nên Ngài hóa làm một vị Đạo Nhân, rồi xuất hiện ở trước chỗ ngồi của trưởng giả và chú nguyện rằng:

多đa 少thiểu 布bố 施thí可khả 得đắc 大đại 富phú
"Xin hãy bố thí một chút thức ăn thì có thể sẽ được đại phú."

長trưởng 者giả 舉cử 頭đầu見kiến 化hóa 沙Sa 門Môn即tức 罵mạ 之chi 曰viết
Ông trưởng giả ngẩng đầu lên thì trông thấy hóa Đạo Nhân nên liền mắng chửi rằng:

汝nhữ 為vi 道Đạo 士sĩ而nhi 無vô 羞tu 恥sỉ室thất 家gia 坐tọa 食thực何hà 為vi 搪đường 揬đột
"Ông là người tu hành mà chẳng biết liêm sỉ. Gia đình người ta đang ngồi ăn cơm mà sao ngang nhiên xông vào như thế?"

沙Sa 門Môn 答đáp 曰viết
Đạo Nhân đáp rằng:

卿khanh 自tự 愚ngu 癡si不bất 知tri 慚tàm 羞tu今kim 我ngã 乞khất 士sĩ何hà 為vi 慚tàm 羞tu
"Chính ông mới ngu si và không biết xấu hổ. Tôi là một khất sĩ, có gì mà xấu hổ?"

長trưởng 者giả 問vấn 曰viết
Trưởng giả hỏi rằng:

吾ngô 及cập 室thất 家gia自tự 相tương 娛ngu 樂lạc何hà 故cố 慚tàm 羞tu
"Tôi và gia đình đang vui vẻ với nhau, có gì mà xấu hổ?"

沙Sa 門Môn 答đáp 曰viết
Đạo Nhân đáp rằng:

卿khanh 殺sát 父phụ 妻thê 母mẫu供cung 養dưỡng 怨oán 家gia不bất 知tri 慚tàm 羞tu反phản 謂vị 乞khất 士sĩ何hà 不bất 慚tàm 羞tu
"Ông giết cha, lấy mẹ làm vợ, và nuôi dưỡng oan gia mà chẳng biết xấu hổ. Còn tôi là một khất sĩ, có gì mà xấu hổ chứ?"

於ư 是thị 沙Sa 門Môn即tức 說thuyết 偈kệ 言ngôn
Lúc bấy giờ hóa Đạo Nhân liền nói kệ rằng:

所sở 生sanh 枝chi 不bất 絕tuyệt
但đãn 用dụng 食thực 貪tham 欲dục
養dưỡng 怨oán 益ích 丘khâu 塚trủng
愚ngu 人nhân 常thường 汲cấp 汲cấp

"Ái dục sanh bất tận
Chỉ dùng tham dục ăn
Nuôi oán, lợi gò mả
Kẻ ngu luôn miệt mài

雖tuy 獄ngục 有hữu 鈎câu 鍱diệp
慧tuệ 人nhân 不bất 謂vị 牢lao
愚ngu 見kiến 妻thê 子tử 飾sức
染nhiễm 著trước 愛ái 甚thậm 牢lao

Tuy ngục có móc xích
Người trí chẳng bảo chắc
Kẻ ngu thấy vợ con
Nhiễm ái hơn lao ngục

慧tuệ 說thuyết 愛ái 為vi 獄ngục
深thâm 固cố 難nan 得đắc 出xuất
是thị 故cố 當đương 斷đoạn 棄khí
不bất 親thân 欲dục 為vi 安an

Phật nói ái là ngục
Kiên cố khó ra khỏi
Cho nên hãy đoạn trừ
An lạc không tham dục"

長trưởng 者giả 聞văn 偈kệ驚kinh 而nhi 問vấn 之chi
Trưởng giả nghe kệ và kinh ngạc hỏi rằng:

道Đạo 人Nhân 何hà 故cố而nhi 說thuyết 此thử 語ngữ 也dã
"Vì sao Đạo Nhân lại nói những lời này?"

道Đạo 人Nhân 答đáp 曰viết
Đạo Nhân đáp rằng:

案án 上thượng 雞kê 者giả是thị 卿khanh 先tiên 世thế 時thời 父phụ以dĩ 慳san 貪tham 故cố常thường 生sanh 雞kê 中trung為vị 卿khanh 所sở 食thực
"Con gà bị giết ở trên bàn là cha của ông ở đời trước. Do lòng keo kiệt nên luôn sanh vào loài gà và bị ông ăn thịt.

此thử 小tiểu 兒nhi 者giả往vãng 昔tích 作tác 羅la 剎sát卿khanh 作tác 賈cổ 客khách大đại 人nhân 乘thừa 船thuyền 入nhập 海hải每mỗi 輒triếp 流lưu 墮đọa羅la 剎sát 國quốc 中trung為vị 羅la 剎sát 所sở 食thực如như 是thị 五ngũ 百bách 世thế 壽thọ 盡tận來lai 生sanh 為vi 卿khanh 作tác 子tử以dĩ 卿khanh 餘dư 罪tội 未vị 畢tất故cố 來lai 欲dục 相tương 害hại 耳nhĩ
Thuở xưa đứa bé này từng làm quỷ bạo ác. Bấy giờ ông là một thương chủ dẫn các thương nhân ra biển, rồi bị lạc ở nước quỷ bạo ác và bị nó bắt ăn thịt. Sau khi đã thọ hết 500 đời như thế, nó sanh làm con trai của ông. Bởi tội của ông chưa hết nên nó mới đến gây hại.

今kim 是thị 妻thê 者giả是thị 卿khanh 先tiên 世thế 時thời 母mẫu以dĩ 恩ân 愛ái 深thâm 固cố故cố 今kim 還hoàn 與dữ 卿khanh 作tác 婦phụ
Còn người vợ hiện tại chính là mẹ của ông ở đời trước. Do ân ái sâu đậm nên nay mới sanh trở lại làm vợ của ông.

今kim 卿khanh 愚ngu 癡si不bất 識thức 宿túc 命mạng殺sát 父phụ 養dưỡng 怨oán以dĩ 母mẫu 為vi 妻thê五ngũ 道đạo 生sanh 死tử輪luân 轉chuyển 無vô 際tế周chu 旋toàn 五ngũ 道đạo誰thùy 能năng 知tri 者giả唯duy 有hữu 道Đạo 士sĩ見kiến 此thử 覩đổ 彼bỉ愚ngu 者giả 不bất 知tri豈khởi 不bất 慙tàm 羞tu
Ông nay thật ngu si và chẳng biết việc đời trước, giết cha để nuôi kẻ thù và lấy mẹ làm vợ. Chúng sanh thường luân chuyển trong sanh tử không cùng tận ở trong năm đường. Tuần hoàn trong năm đường như thế, ai có thể thấu rõ? Duy chỉ có những bậc tu Đạo mới thấy họ từ nơi này đến nơi kia. Kẻ ngu chẳng biết mà sao còn không xấu hổ?"

於ư 是thị 長trưởng 者giả懎sắc 然nhiên 毛mao 竪thụ如như 畏úy 怖bố 狀trạng佛Phật 現hiện 威uy 神thần令linh 識thức 宿túc 命mạng長trưởng 者giả 見kiến 佛Phật即tức 識thức 宿túc 命mạng尋tầm 則tắc 懺sám 悔hối 謝tạ 佛Phật便tiện 受thọ 五Ngũ 戒Giới佛Phật 為vi 說thuyết 法Pháp即tức 得đắc 須Tu 陀Đà 洹Hoàn 道Đạo
Lúc ấy ông trưởng giả hối hận, lông trên thân dựng đứng, và kinh hãi vạn phần. Bấy giờ Đức Phật hiện sức uy thần và khiến ông biết được những việc ở đời trước. Khi trông thấy Phật, ông trưởng giả liền biết chuyện đời trước, rồi sám hối tạ ơn Phật và xin thọ Năm Giới. Sau khi nghe Phật thuyết Pháp, ông liền đắc Quả Dự Lưu.




昔tích 佛Phật 在tại 舍Xá 衛Vệ 國Quốc祇Kỳ 洹Hoàn 說thuyết 法Pháp時thời 有hữu 年niên 少thiếu 比Bỉ 丘Khâu入nhập 城thành 分phân 衛vệ見kiến 一nhất 年niên 少thiếu 女nữ 人nhân端đoan 正chánh 無vô 比tỉ心tâm 存tồn 色sắc 欲dục迷mê 結kết 不bất 解giải遂toại 便tiện 成thành 病bệnh食thực 飲ẩm 不bất 下hạ顏nhan 色sắc 憔tiều 悴tụy委ủy 臥ngọa 不bất 起khởi
Vào thời Đức Phật thuyết Pháp ở Tinh xá Kỳ Viên gần thành Phong Đức, bấy giờ có một vị Bhikṣu [bíc su] trẻ tuổi vào thành khất thực. Trong thành ngài thấy một thiếu nữ xinh đẹp tuyệt trần và cõi lòng chỉ nhớ nhung đến nàng. Do sự mê muội chẳng được giải tỏa nên liền thành bệnh. Ngài không ăn uống gì hết, thân thể tiều tụy, và nằm mãi chẳng ngồi dậy.

同đồng 學học 道Đạo 人nhân往vãng 問vấn 訊tấn 之chi
Khi ấy các vị đồng tu đến thăm và hỏi rằng:

何hà 所sở 患hoạn 苦khổ
"Sao thầy chịu khổ não như thế?"

年niên 少thiếu 比Bỉ 丘Khâu具cụ 說thuyết 其kỳ 意ý欲dục 壞hoại 道Đạo 心tâm從tùng 彼bỉ 愛ái 欲dục願nguyện 不bất 如như 意ý愁sầu 結kết 為vi 病bệnh同đồng 學học 諫gián 喻dụ不bất 入nhập 其kỳ 耳nhĩ便tiện 強cưỡng 扶phù 持trì將tương 至chí 佛Phật 所sở具cụ 以dĩ 事sự 狀trạng啟khải 白bạch 世Thế 尊Tôn
Lúc đó vị Bhikṣu trẻ tuổi mới kể hết sự tình. Kể từ khi nảy sanh ái dục kia nên lòng ngài chẳng còn muốn tu Đạo nữa, ước nguyện lại chẳng được như ý nên ưu sầu thành bệnh. Các bạn đồng học khuyên ngăn nhưng lời của họ chẳng lọt vào tai. Thế nên họ đành phải dìu vị ấy đến chỗ của Phật và kể rõ sự việc với Thế Tôn.

佛Phật 告cáo 年niên 少thiếu 比Bỉ 丘Khâu
Phật bảo vị Bhikṣu trẻ tuổi rằng:

汝nhữ 願nguyện 易dị 得đắc 耳nhĩ不bất 足túc 愁sầu 結kết 也dã吾ngô 當đương 為vì 汝nhữ方phương 便tiện 解giải 之chi且thả 起khởi 食thực 飲ẩm
"Ước nguyện của ông cũng dễ được thôi, đâu cần phải sầu khổ như thế. Ta sẽ lập phương tiện giúp ông. Ông hãy ngồi dậy và ăn uống trở lại."

比Bỉ 丘Khâu 聞văn 之chi坦thản 然nhiên 意ý 喜hỷ氣khí 結kết 便tiện 通thông
Khi vị Bhikṣu nghe lời Phật nói, cõi lòng rất vui mừng và khí huyết lưu thông.

於ư 是thị 世Thế 尊Tôn將tương 此thử 比Bỉ 丘Khâu并tinh 與dữ 大đại 眾chúng入nhập 舍Xá 衛Vệ 城Thành到đáo 好hảo 女nữ 舍xá好hảo 女nữ 已dĩ 死tử停đình 屍thi 三tam 日nhật室thất 家gia 悲bi 號hào不bất 忍nhẫn 埋mai 藏tạng身thân 體thể 臭xú 脹trướng不bất 淨tịnh 流lưu 出xuất
Lúc bấy giờ Thế Tôn dẫn vị Bhikṣu này và đại chúng vào thành Phong Đức, rồi đến nhà của cô gái xinh đẹp kia. Tuy nhiên cô gái đó đã chết ba ngày rồi. Thân tộc kêu gào thương xót và chẳng nỡ vội mai táng, nên thân xác trương phình, bốc mùi hôi thối và những thứ bất tịnh chảy ra ngoài.

佛Phật 告cáo 比Bỉ 丘Khâu
Phật bảo vị Bhikṣu rằng:

汝nhữ 所sở 貪tham 惑hoặc好hiếu 女nữ 人nhân 者giả今kim 已dĩ 如như 此thử萬vạn 物vật 無vô 常thường變biến 在tại 呼hô 吸hấp愚ngu 者giả 觀quan 外ngoại不bất 見kiến 其kỳ 惡ác纏triền 綿miên 罪tội 網võng以dĩ 為vi 快khoái 樂lạc
"Những thứ ông tham luyến về cô gái này, nay đã trở thành như vậy đó. Vạn vật vô thường và thay đổi trong từng hơi thở. Kẻ ngu chỉ nhìn xem vẻ ngoài mà chẳng thấy thứ xấu ác của nó. Họ triền miên trong lưới nghiệp tội mà cho là vui sướng."

於ư 是thị 世Thế 尊Tôn即tức 說thuyết 偈kệ 言ngôn
Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:

見kiến 色sắc 心tâm 迷mê 惑hoặc
不bất 惟duy 觀quán 無vô 常thường
愚ngu 以dĩ 為vi 美mỹ 善thiện
安an 知tri 其kỳ 非phi 真chân

"Thấy sắc tâm mê muội
Vô thường không tư duy
Kẻ ngu cho tốt đẹp
Nào biết đó chẳng thật

以dĩ 婬dâm 樂nhạo 自tự 裹khỏa
譬thí 如như 蠶tằm 作tác 繭kiển
智trí 者giả 能năng 斷đoạn 棄khí
不bất 眄miện 除trừ 眾chúng 苦khổ

Cuộn mình trong ái dục
Ví như tằm nhả tơ
Bậc trí khéo đoạn trừ
Chẳng tiếc, trừ khổ ách

心tâm 念niệm 放phóng 逸dật 者giả
見kiến 婬dâm 以dĩ 為vi 淨tịnh
恩ân 愛ái 意ý 盛thịnh 增tăng
從tùng 是thị 造tạo 牢lao 獄ngục

Tâm ai mãi buông lung
Thấy dâm bảo là tịnh
Ân ái ý gia tăng
Từ đó vào ngục lao

覺giác 意ý 滅diệt 婬dâm 者giả
常thường 念niệm 欲dục 不bất 淨tịnh
從tùng 是thị 出xuất 邪tà 獄ngục
能năng 斷đoạn 老lão 死tử 患hoạn

Ý ai diệt trừ dâm
Thường niệm dục bất tịnh
Từ đó thoát ngục tà
Khéo đoạn già chết khổ"

於ư 是thị 年niên 少thiếu 比Bỉ 丘Khâu見kiến 此thử 女nữ 人nhân死tử 已dĩ 三tam 日nhật面diện 色sắc 膖phùng 爛lạn其kỳ 臭xú 難nan 近cận又hựu 聞văn 世Thế 尊Tôn清thanh 誨hối 之chi 偈kệ悵trướng 然nhiên 意ý 悟ngộ自tự 知tri 迷mê 謬mậu為vì 佛Phật 作tác 禮lễ叩khấu 頭đầu 悔hối 過quá佛Phật 授thọ 自tự 歸quy將tương 還hoàn 祇Kỳ 洹Hoàn沒một 命mạng 精tinh 進tấn得đắc 羅La 漢Hán 道Đạo所sở 將tương 大đại 眾chúng無vô 央ương 數số 人nhân見kiến 色sắc 欲dục 之chi 穢uế信tín 無vô 常thường 之chi 證chứng貪tham 愛ái 望vọng 止chỉ亦diệc 得đắc 道Đạo 迹tích
Khi nhìn thấy cô gái kia đã chết ba ngày với khuôn mặt trương phình rữa nát, hôi thối không ai dám đến gần, và lại nghe được bài kệ thanh tịnh khai thị của Thế Tôn, vị Bhikṣu trẻ tuổi hoát nhiên tỏ ngộ và biết sự mê muội của mình. Ngài cúi đầu đảnh lễ Phật, sám hối lỗi lầm và quy y Phật, rồi được dẫn về lại Tinh xá Kỳ Viên. Sau đó vị Bhikṣu trẻ tuổi nỗ lực tinh tấn và cuối cùng đắc Đạo Ưng Chân. Bấy giờ đại chúng đi theo và vô số người ở đó đều thấy sự ô uế của sắc dục, tin hiểu lẽ vô thường, khát vọng tham ái đình chỉ, và cũng thấy dấu Đạo.




昔tích 佛Phật 在tại 舍Xá 衛Vệ 精tinh 舍xá為vì 天thiên 人nhân 龍long 鬼quỷ 說thuyết 法Pháp
Thuở xưa Đức Phật thuyết Pháp cho hàng người, trời rồng, và quỷ thần ở Tinh xá Kỳ Viên gần thành Phong Đức.

時thời 世thế 有hữu 大đại 長trưởng 者giả財tài 富phú 無vô 數số有hữu 一nhất 息tức 男nam年niên 十thập 二nhị 三tam父phụ 母mẫu 命mạng 終chung其kỳ 兒nhi 年niên 小tiểu未vị 知tri 生sanh 活hoạt理lý 家gia 之chi 事sự泮phấn 散tán 財tài 物vật數sổ 年niên 便tiện 盡tận久cửu 後hậu 行hành 乞khất由do 不bất 自tự 供cung
Bấy giờ có một đại trưởng giả giàu sang vô cùng. Ông chỉ có một đứa con trai duy nhất, khoảng 12, 13 tuổi. Nào ngờ ít lâu sau cả hai vợ chồng đều lần lượt qua đời. Do cậu bé trẻ tuổi chưa biết làm ăn sinh sống và quản lý gia nghiệp, nên tài sản tiêu tán và chỉ trong vài năm thì gia tài hết sạch. Thời gian sau đó, chàng không thể tự lo bản thân được nữa nên phải đi xin ăn.

其kỳ 父phụ 有hữu 親thân 友hữu 長trưởng 者giả大đại 富phú 無vô 數số一nhất 日nhật 見kiến 之chi問vấn 其kỳ 委ủy 曲khúc長trưởng 者giả 愍mẫn 念niệm將tương 歸quy 經kinh 紀kỷ以dĩ 女nữ 配phối 之chi給cấp 與dữ 奴nô 婢tỳ 車xa 馬mã資tư 財tài 無vô 數số更cánh 作tác 屋ốc 宅trạch成thành 立lập 門môn 戶hộ為vi 人nhân 懶lãn 惰nọa無vô 有hữu 計kế 校giáo不bất 能năng 生sanh 活hoạt坐tọa 散tán 財tài 盡tận日nhật 更cánh 飢cơ 困khốn長trưởng 者giả 以dĩ 其kỳ 女nữ故cố 更cánh 與dữ 資tư 財tài故cố 復phục 如như 前tiền遂toại 至chí 貧bần 乏phạp長trưởng 者giả 數sổ 餉hướng用dụng 之chi 無vô 道đạo念niệm 叵phả 成thành 就tựu欲dục 奪đoạt 其kỳ 婦phụ更cánh 嫁giá 與dữ 人nhân
Trước đây thân phụ của chàng thanh niên này có một người bạn thân, cũng là một trưởng giả tài phú phi thường. Một hôm ông tình cờ thấy chàng thanh niên này nên mới hỏi sự tình. Khi biết được cảnh ngộ, trưởng giả rất thương xót. Ông dẫn anh ta về nhà, rồi còn gả con gái của mình, cấp cho nô tỳ ngựa xe, và vô số tài vật. Ông lại xây cho một căn nhà để hai vợ chồng trẻ có cuộc sống mới. Tuy nhiên, anh ta là một kẻ lười biếng, chẳng biết lo nghĩ tương lai và không thể làm ăn sinh sống. Do đó tài sản tiêu hao và đời sống của hai vợ chồng ngày càng khốn đốn. Vì thương con gái của mình, ông trưởng giả lại cho thêm tài vật, nhưng cuộc sống của họ dần dần túng thiếu cũng y như trước. Ông trưởng giả hết lần này đến lượt khác lại tiếp tục cho nữa nhưng cũng chẳng được gì. Ông suy nghĩ tiền đồ của chàng rể không thể thành tựu nên muốn đoạt lại con gái và gả cho người khác.

宗tông 家gia 共cộng 議nghị女nữ 竊thiết 聞văn 之chi還hoàn 語ngứ 其kỳ 夫phu
Giữa lúc gia tộc đang cùng nhau bàn luận về việc này thì con gái của trưởng giả tình cờ nghe được, nên trở về kể cho chồng nàng hay và nói rằng:

我ngã 家gia 群quần 強cường勢thế 能năng 奪đoạt 卿khanh以dĩ 卿khanh 不bất 能năng 生sanh 活hoạt 故cố卿khanh 當đương 云vân 何hà欲dục 作tác 何hà 計kế 也dã
"Thế lực của gia đình em hùng mạnh và có thể đoạt lại em từ anh, bởi vì anh không thể làm ăn sinh sống. Ý anh nghĩ sao? Anh định tính sao đây?"

其kỳ 夫phu 聞văn 婦phụ 言ngôn慚tàm 愧quý 自tự 念niệm
Khi nghe vợ mình nói thế, anh chồng xấu hổ và tự nghĩ:

是thị 吾ngô 薄bạc 福phước生sanh 失thất 覆phú 蓋cái不bất 習tập 家gia 計kế生sanh 活hoạt 之chi 法pháp今kim 當đương 失thất 婦phụ乞khất 匃cái 如như 故cố恩ân 愛ái 已dĩ 行hành貪tham 欲dục 情tình 著trước今kim 當đương 生sanh 別biệt情tình 豈khởi 可khả 勝thắng
"Đây đều là do mình bạc phước. Từ thuở nhỏ đã mất đi sự che chở và chưa từng học qua phương pháp làm ăn. Nay mình sẽ mất vợ và phải đi xin ăn như trước. Tình nghĩa vợ chồng thắm thiết bao năm qua, nay sẽ phải biệt ly. Làm sao mình có thể chịu nổi?"

思tư 惟duy 反phản 覆phúc便tiện 興hưng 惡ác 念niệm將tương 婦phụ 入nhập 房phòng
Sau khi suy tính nhiều lần, anh ta khởi ác niệm, rồi dẫn vợ vào phòng và nói rằng:

今kim 欲dục 與dữ 汝nhữ共cộng 死tử 一nhất 處xứ
"Nay hai vợ chồng của chúng ta sẽ cùng chết ở đây."

即tức 便tiện 剌lạt 婦phụ還hoàn 自tự 刺thứ 害hại夫phu 婦phụ 俱câu 死tử奴nô 婢tỳ 驚kinh 走tẩu往vãng 告cáo 長trưởng 者giả長trưởng 者giả 大đại 小tiểu驚kinh 來lai 看khán 視thị見kiến 其kỳ 已dĩ 然nhiên棺quan 殮liễm 遣khiển 送tống如như 國quốc 常thường 法pháp長trưởng 者giả 大đại 小tiểu憂ưu 愁sầu 念niệm 女nữ
Và thế là anh ta liền lấy dao đâm vợ, rồi tự tử. Khi phát hiện hai vợ chồng đều chết, các nô tỳ hoảng sợ chạy đến báo cho ông trưởng giả. Toàn thể gia quyến lớn nhỏ của trưởng giả kinh hoàng chạy đến xem. Khi thấy chuyện đã rồi, họ liệm xác hai vợ chồng, rồi đưa đi mai táng theo tục lệ trong nước. Lúc ấy kẻ lớn người nhỏ trong gia đình của trưởng giả đều buồn bã và thương nhớ đứa con gái khôn nguôi.

不bất 去khứ 須tu 臾du聞văn 佛Phật 在tại 世thế教giáo 化hóa 說thuyết 法Pháp見kiến 者giả 歡hoan 喜hỷ妄vọng 憂ưu 除trừ 患hoạn將tương 家gia 大đại 小tiểu往vãng 到đáo 佛Phật 所sở為vì 佛Phật 作tác 禮lễ卻khước 坐tọa 一nhất 面diện
Trước đó không lâu, ông trưởng giả nghe rằng Đức Phật đã xuất hiện ở thế gian, giáo hóa thuyết Pháp, ai thấy đều hoan hỷ và có thể tiêu trừ mọi ưu sầu hoạn nạn. Vì vậy ông trưởng giả liền dẫn cả gia đình đến chỗ của Phật, rồi đảnh lễ Phật và ngồi qua một bên.

佛Phật 問vấn 長trưởng 者giả
Phật hỏi trưởng giả:

為vi 所sở 從tùng 來lai何hà 以dĩ 不bất 樂lạc憂ưu 愁sầu 之chi 色sắc
"Ông từ đâu đến mà sao nét mặt ưu sầu chẳng vui?"

長trưởng 者giả 白bạch 言ngôn
Trưởng giả thưa rằng:

居cư 門môn 不bất 德đức前tiền 嫁giá 一nhất 女nữ值trị 遇ngộ 愚ngu 夫phu不bất 能năng 生sanh 活hoạt欲dục 奪đoạt 其kỳ 婦phụ便tiện 殺sát 婦phụ 及cập 身thân共cộng 死tử 如như 此thử遣khiển 送tống 適thích 還hoàn過quá 覲cận 世Thế 尊Tôn
"[Thưa Thế Tôn!] Gia môn của con bất hạnh. Trước đây con đã gả nhầm ái nữ cho một kẻ ngu si không biết làm ăn sinh sống. Sau đó con muốn đoạt lại con gái. Biết được nên hắn đã giết vợ rồi tự sát. Cả hai vợ chồng đã chết như thế. Sau khi đưa chúng đi mai táng, trên đường về con ghé qua chỗ của Thế Tôn để thân cận."

佛Phật 告cáo 長trưởng 者giả
Phật bảo trưởng giả:

貪tham 欲dục 瞋sân 恚khuể世thế 之chi 常thường 病bệnh愚ngu 癡si 無vô 智trí患hoạn 害hại 之chi 門môn三tam 界giới 五ngũ 道đạo由do 此thử 墮đọa 淵uyên展triển 轉chuyển 生sanh 死tử無vô 央ương 數số 劫kiếp受thọ 苦khổ 萬vạn 端đoan由do 尚thượng 不bất 悔hối豈khởi 況huống 愚ngu 人nhân能năng 得đắc 識thức 此thử貪tham 欲dục 之chi 毒độc滅diệt 身thân 滅diệt 族tộc害hại 及cập 眾chúng 生sanh何hà 況huống 夫phu 婦phụ
"Tham dục và sân hận là căn bệnh thường tình của thế gian. Sự ngu si vô trí là tai họa của gia môn. Hữu tình triển chuyển sanh tử nguy hiểm vô số kiếp để chịu muôn vàn khổ đau ở trong năm đường, đều là do nó. Thế mà họ còn chẳng biết hối cải. Hà huống là kẻ ngu si thì làm sao có thể nhận biết được sự ác độc của tham dục. Họ hủy diệt thân tộc, hại mình và chúng sanh. Huống nữa là vợ chồng."

於ư 是thị 世Thế 尊Tôn即tức 說thuyết 偈kệ 言ngôn
Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:

愚ngu 以dĩ 貪tham 自tự 縛phược
不bất 求cầu 度độ 彼bỉ 岸ngạn
貪tham 為vi 財tài 愛ái 故cố
害hại 人nhân 亦diệc 自tự 害hại

"Kẻ ngu trói bởi tham
Chẳng mong qua bờ kia
Do tham tài với ái
Hại người cũng hại mình

愛ái 欲dục 意ý 為vi 田điền
婬dâm 怒nộ 癡si 為vi 種chủng
故cố 施thí 度độ 世thế 者giả
得đắc 福phước 無vô 有hữu 量lượng

Tâm ái dục là ruộng
Tham sân si là hạt
Ai bố thí độ đời
Phước báo vô cùng tận

伴bạn 少thiểu 而nhi 貨hóa 多đa
商thương 人nhân 怵truật 惕dịch 懼cụ
嗜thị 欲dục 賊tặc 害hại 命mạng
故cố 慧tuệ 不bất 貪tham 欲dục

Ít người mà nhiều hàng
Thương nhân sanh kinh sợ
Tham dục giặc hại mạng
Bậc trí chẳng tham dục"

爾nhĩ 時thời 長trưởng 者giả聞văn 佛Phật 說thuyết 偈kệ欣hân 然nhiên 歡hoan 喜hỷ忘vong 憂ưu 除trừ 患hoạn即tức 於ư 座tòa 上thượng一nhất 切thiết 大đại 小tiểu及cập 諸chư 聽thính 者giả破phá 二nhị 十thập 億ức 惡ác得đắc 須Tu 陀Đà 洹Hoàn 道Đạo
Khi nghe kệ của Phật nói, ông trưởng giả vui mừng và nỗi sầu muộn cũng vơi đi. Toàn thể gia quyến lớn nhỏ của trưởng giả và những người đến nghe Pháp liền ở tại chỗ ngồi, phá trừ 20 ức kiếp nghiệp tội sanh tử và đắc Quả Dự Lưu.




昔tích 佛Phật 在tại 舍Xá 衛Vệ 精tinh 舍xá 中trung為vì 天thiên 龍long 鬼quỷ 神thần帝đế 王vương 臣thần 民dân 說thuyết 法Pháp
Thuở xưa Đức Phật thuyết Pháp cho hàng trời rồng, quỷ thần, quốc vương, quần thần, và dân chúng ở tại Tinh xá Kỳ Viên gần thành Phong Đức.

時thời 有hữu 遊du 蕩đãng 子tử 二nhị 人nhân共cộng 為vi 親thân 友hữu常thường 相tương 追truy 隨tùy一nhất 體thể 無vô 異dị二nhị 人nhân 共cộng 議nghị欲dục 作tác 沙Sa 門Môn
Bấy giờ có hai người lãng du kết bạn với nhau. Họ luôn theo sát cận kề như cùng một thân thể không khác. Một hôm hai người bàn luận với nhau và muốn làm Đạo Nhân.

即tức 便tiện 相tương 將tương來lai 至chí 佛Phật 所sở為vì 佛Phật 作tác 禮lễ長trường 跪quỵ 叉xoa 手thủ白bạch 佛Phật 言ngôn
Và thế là họ cùng đi đến chỗ của Phật, đảnh lễ Đức Phật, hai gối quỳ, chắp tay và thưa với Phật rằng:

願nguyện 欲dục 作tác 沙Sa 門Môn唯duy 見kiến 聽thính 許hứa
"[Thưa Thế Tôn!] Chúng con muốn xuất gia làm Đạo Nhân. Kính mong Như Lai cho phép."

佛Phật 便tiện 受thọ 之chi即tức 作tác 沙Sa 門Môn佛Phật 令lệnh 二nhị 人nhân共cộng 止chỉ 一nhất 房phòng二nhị 人nhân 共cộng 止chỉ但đãn 念niệm 世thế 間gian恩ân 愛ái 榮vinh 樂lạc更cánh 共cộng 咨tư 嗟ta情tình 欲dục 形hình 體thể說thuyết 其kỳ 姿tư 媚mị專chuyên 著trước 不bất 捨xả念niệm 不bất 止chỉ 息tức不bất 計kế 無vô 常thường污ô 露lộ 不bất 淨tịnh以dĩ 此thử 欝uất 怫phật病bệnh 生sanh 於ư 內nội佛Phật 以dĩ 慧tuệ 眼nhãn知tri 其kỳ 想tưởng 亂loạn走tẩu 意ý 於ư 欲dục放phóng 心tâm 不bất 住trụ以dĩ 是thị 不bất 度độ佛Phật 令lệnh 一nhất 人nhân 行hành
Đức Phật liền thu nhận để trở thành Đạo Nhân, và bảo cùng trú trong một căn phòng. Thế nhưng hai người họ chỉ ở trong phòng nghĩ ngợi về những vinh hoa vui sướng của thế gian. Họ lại cùng nhau ca ngợi về thú vui của thể xác và miêu tả về dáng dấp thùy mị của nữ nhân. Lòng họ bám chặt chẳng buông xả và ý niệm không hề dừng nghỉ. Họ chẳng biết vô thường và sự bất tịnh ô trược của thân thể. Lâu dần tâm họ mắc bệnh do bởi sự khao khát bộc phát. Với tuệ nhãn, Đức Phật biết loạn tưởng của họ đang chạy theo sắc dục và buông thả tâm ý nên chẳng thể giải thoát. Lúc ấy Đức Phật bảo một người trong số họ đi đến nơi khác.

便tiện 自tự 化hóa 作tác一nhất 人nhân 入nhập 房phòng問vấn 之chi 言ngôn
Sau đó Ngài hóa thành người kia, rồi vào phòng và tâm sự với người bạn đồng tu rằng:

吾ngô 等đẳng 所sở 思tư意ý 志chí 不bất 離ly可khả 共cộng 往vãng 觀quan視thị 其kỳ 形hình 體thể知tri 為vi 何hà 如như但đãn 空không 想tưởng 念niệm疲bì 勞lao 無vô 益ích
"Lòng của chúng ta luôn nghĩ ngợi về sắc dục mà chẳng hề lìa xa. Hay là chúng ta hãy cùng đi xem thân thể của người nữ để biết như thế nào? Còn như ở đây mơ mộng suy tư thì chỉ nhọc nhằn vô ích."

二nhị 人nhân 相tương 隨tùy至chí 婬dâm 女nữ 村thôn佛Phật 於ư 村thôn 內nội化hóa 作tác 一nhất 婬dâm 女nữ 人nhân
Và thế là hai người cùng đi đến trong thôn của một dâm nữ nọ. Bấy giờ Đức Phật ở trong thôn ấy hóa làm một dâm nữ.

共cộng 入nhập 其kỳ 舍xá而nhi 告cáo 之chi 曰viết
Khi đã bước vào nhà của dâm nữ, hai người họ nói rằng:

吾ngô 等đẳng 道Đạo 人Nhân受thọ 佛Phật 禁cấm 戒giới不bất 犯phạm 身thân 事sự意ý 欲dục 觀quán 女nữ 人nhân 形hình 容dung當đương 顧cố 直trực 如như 法pháp
"Chúng tôi là Đạo Nhân, thọ giới cấm của Phật, và không dám vi phạm thân nghiệp. Tuy nhiên ý niệm thì muốn quán sát thân thể của người nữ. Chúng tôi chỉ nhìn ngắm và sẽ giữ đúng quy tắc."

於ư 是thị 化hóa 女nữ即tức 解giải 瓔anh 珞lạc香hương 薰huân 衣y 裳thường倮khỏa 形hình 而nhi 立lập臭xú 處xứ 難nan 近cận
Hóa dâm nữ liền cởi chuỗi ngọc và y phục ngát hương, rồi đứng lõa hình. Bấy giờ mùi hôi từ nơi ô uế của dâm nữ bốc ra, thật khó mà có thể đứng gần.

二nhị 人nhân 觀quan 之chi具cụ 見kiến 污ô 露lộ化hóa 沙Sa 門Môn即tức 謂vị 一nhất 人nhân 言ngôn
Sau khi hai người họ đã nhìn rõ những chỗ hôi dơ, hóa Đạo Nhân liền bảo người kia rằng:

女nữ 人nhân 之chi 好hảo但đãn 有hữu 脂chi 粉phấn芬phân 薰huân 眾chúng 華hoa沐mộc 浴dục 塗đồ 香hương著trước 眾chúng 雜tạp 色sắc 衣y 裳thường以dĩ 覆phú 污ô 露lộ強cưỡng 薰huân 以dĩ 香hương欲dục 以dĩ 人nhân 觀quan譬thí 如như 革cách 囊nang 盛thình 屎thỉ有hữu 何hà 可khả 貪tham
"Người nữ xinh đẹp là nhờ có son phấn, cài lên hoa thơm, tắm gội nước hương, và mặc quần áo lộng lẫy để che chỗ hôi dơ. Họ thoa dầu thơm và mong muốn người khác nhìn thấy. Thật sự thì cái thân thể tanh hôi đó ví như một cái túi đựng phân vậy. Có gì mà đáng tham luyến?"

於ư 是thị 化hóa 比Bỉ 丘Khâu即tức 說thuyết 偈kệ 言ngôn
Lúc bấy giờ vị hóa Bhikṣu liền nói kệ rằng:

欲dục 我ngã 知tri 汝nhữ 本bổn
意ý 以dĩ 思tư 想tưởng 生sanh
我ngã 不bất 思tư 想tưởng 汝nhữ
則tắc 汝nhữ 而nhi 不bất 有hữu

"Nguồn gốc của tham dục
Là do vọng tưởng sanh
Nếu tâm chẳng nghĩ tưởng
Ái dục sẽ không sanh

心tâm 可khả 則tắc 為vi 欲dục
何hà 必tất 獨độc 五ngũ 欲dục
速tốc 可khả 絕tuyệt 五ngũ 欲dục
是thị 乃nãi 為vi 勇dũng 力lực

Ái dục tâm ham muốn
Đâu chỉ năm dục thôi?
Mau lìa tuyệt năm dục
Mới là bậc dũng mãnh

無vô 欲dục 無vô 所sở 畏úy
恬điềm 惔đàm 無vô 憂ưu 患hoạn
欲dục 除trừ 使sử 結kết 解giải
是thị 為vi 長trường 出xuất 淵uyên

Vô dục sẽ không sợ
Đơn sơ chẳng ưu sầu
Dục trừ kết sử giải
Đó là thoát vực sâu"

佛Phật 說thuyết 偈kệ 已dĩ現hiện 其kỳ 光quang 相tướng比Bỉ 丘Khâu 見kiến 之chi慚tàm 愧quý 悔hối 過quá五ngũ 體thể 投đầu 地địa為vì 佛Phật 作tác 禮lễ重trùng 為vi 說thuyết 法Pháp欣hân 然nhiên 得đắc 解giải便tiện 得đắc 羅La 漢Hán
Lúc nói kệ xong, Đức Phật liền hiện trở lại quang minh tướng hảo. Khi thấy vậy, vị Bhikṣu sanh lòng hổ thẹn, sám hối lỗi lầm, và cúi đầu đảnh lễ sát đất. Sau khi nghe Phật thuyết Pháp thêm một lần nữa, ngài vui mừng khai ngộ và trở thành bậc Ưng Chân.

一nhất 人nhân 行hành 還hoàn
Khoảng một lúc sau thì vị Bhikṣu được bảo đến nơi khác trở về.

見kiến 伴bạn 顏nhan 姿tư欣hân 悅duyệt 於ư 常thường即tức 問vấn 其kỳ 伴bạn
Khi trông thấy nét mặt của bạn mình vui tươi hơn bình thường nên liền hỏi rằng:

獨độc 何hà 如như 斯tư
"Tại sao nét mặt của thầy tươi sáng như thế?"

即tức 如như 事sự 說thuyết
Vị Bhikṣu này kể lại rằng:

佛Phật 之chi 大đại 慈từ愍mẫn 度độ 如như 此thử蒙mông 世Thế 尊Tôn 恩ân得đắc 免miễn 眾chúng 苦khổ
"Hôm nay Đức Phật từ bi thương xót đã hóa độ cho mình nên mới được như thế. Nhờ hồng ân của Thế Tôn mà mình được thoát miễn khổ ách."

於ư 是thị 比Bỉ 丘Khâu重trùng 為vi 說thuyết 偈kệ 言ngôn
Lúc ấy vị Bhikṣu này lại nói kệ rằng:

晝trú 夜dạ 念niệm 嗜thị 欲dục
意ý 走tẩu 不bất 念niệm 休hưu
見kiến 女nữ 欲dục 污ô 露lộ
想tưởng 滅diệt 則tắc 無vô 憂ưu

"Ngày đêm nhớ sắc dục
Rong ruổi ý chẳng dừng
Thấy uế của nữ nhân
Tưởng diệt hết ưu sầu"

其kỳ 伴bạn 比Bỉ 丘Khâu聞văn 此thử 偈kệ 已dĩ便tiện 自tự 思tư 惟duy斷đoạn 欲dục 滅diệt 想tưởng即tức 得đắc 法Pháp 眼nhãn
Khi nghe bài kệ này xong, vị Bhikṣu đồng tu liền tự tư duy, đoạn diệt dục tưởng, và được Pháp nhãn thanh tịnh.

利Lợi 養Dưỡng 品Phẩm 第đệ 三tam 十thập 三tam
Phẩm 33: Lợi Dưỡng


昔tích 佛Phật 將tương 諸chư 弟đệ 子tử至chí 俱Câu 曇Đàm 彌Di 國Quốc美Mỹ 音Âm 精Tinh 舍Xá為vì 諸chư 天thiên 人nhân神thần 龍long 說thuyết 法Pháp
Thuở xưa Đức Phật dẫn theo các đệ tử đến Tinh xá Mỹ Âm ở trong nước Bất Tĩnh để thuyết Pháp cho hàng trời người, rồng, và quỷ thần.

時thời 彼bỉ 國quốc 王vương名danh 曰viết 優Ưu 填Điền有hữu 大đại 夫phu 人nhân執chấp 行hành 仁nhân 愛ái顯hiển 譽dự 清thanh 潔khiết王vương 珍trân 其kỳ 操thao每mỗi 私tư 恭cung 敬kính聞văn 佛Phật 來lai 化hóa嚴nghiêm 駕giá 共cộng 出xuất往vãng 至chí 佛Phật 所sở為vì 佛Phật 作tác 禮lễ卻khước 坐tọa 常thường 位vị
Vị quốc vương nước đó tên là Xuất Ái. Ngài có vị vương hậu với lòng nhân ái, nổi tiếng thanh cao và trinh khiết. Do đó nhà vua hết mực cung kính và trân quý phẩm đức của vương hậu. Khi nghe tin Phật đến đây giáo hóa chúng sanh, nhà vua ra lệnh chuẩn bị ngựa xe và cùng vương hậu đi đến chỗ của Phật, rồi đảnh lễ Đức Phật và lui xuống ngồi ở một bên.

佛Phật 為vì 國quốc 王vương及cập 夫phu 人nhân 婇thể 女nữ說thuyết 無vô 常thường 苦khổ 空không人nhân 所sở 由do 生sanh合hợp 會hội 別biệt 離ly怨oán 憎tăng 會hội 苦khổ由do 福phước 生sanh 天thiên由do 惡ác 入nhập 淵uyên國quốc 王vương 夫phu 人nhân歡hoan 欣hân 信tín 解giải各các 受thọ 五Ngũ 戒Giới為vi 清Thanh 信Tín 士Sĩ 女Nữ禮lễ 佛Phật 辭từ 退thoái還hoàn 入nhập 宮cung 中trung
Khi ấy Đức Phật thuyết giảng về khổ, không, vô thường, vô ngã cho quốc vương, vương hậu, và các thể nữ. Ngài lại nói về con người do nhân duyên mà có hợp hội và biệt ly, nỗi khổ của yêu thương chia lìa và nỗi khổ của oán ghét gặp nhau. Con người do làm phước mà sanh lên trời, và do tạo ác mà vào địa ngục. Lúc ấy quốc vương và vương hậu vui mừng tỏ ngộ, thọ trì Năm Giới và xin làm Thanh Tín Sĩ. Sau đó nhà vua và vương hậu đảnh lễ Đức Phật, rồi từ biệt và trở về cung.

時thời 有hữu 婆Bà 羅La 門Môn名danh 曰viết 吉Cát 星Tinh生sanh 一nhất 好hảo 女nữ世thế 間gian 少thiểu 比tỉ至chí 年niên 十thập 六lục無vô 能năng 訶ha 者giả懸huyền 金kim 千thiên 兩lượng積tích 九cửu 十thập 日nhật募mộ 索sách 智trí 者giả有hữu 能năng 訶ha 此thử 女nữ為vi 不bất 端đoan 正chánh 者giả以dĩ 金kim 與dữ 之chi無vô 敢cảm 應ứng 者giả
Bấy giờ có một Phạm Chí tên là Cát Tinh. Ông sanh được một cô con gái xinh đẹp tuyệt trần và thật hiếm có ở thế gian. Đến năm 16 tuổi, nét đẹp của nàng không ai có thể chê. Do đó Phạm Chí treo một giải thưởng 1.000 lượng vàng suốt 90 ngày để xem có người trí nào, mà có thể chỉ ra khuyết điểm không tốt của con mình thì ông sẽ tặng số vàng đó cho họ. Thế nhưng không một ai dám phê phán cả.

女nữ 以dĩ 長trưởng 大đại應ưng 當đương 嫁giá 處xứ念niệm 當đương 與dữ 誰thùy
Thời gian trôi qua, con gái của ông dần dần trưởng thành và đến lúc xuất giá. Phạm Chí suy nghĩ là sẽ phải gả cho ai.

若nhược 有hữu 端đoan 正chánh如như 我ngã 女nữ 者giả以dĩ 女nữ 與dữ 之chi聽thính 聞văn 沙Sa 門Môn 瞿Cù 曇Đàm釋Thích 迦Ca 之chi 種chủng姿tư 容dung 金kim 色sắc世thế 所sở 希hy 有hữu當đương 以dĩ 此thử 女nữ往vãng 配phối 與dữ 之chi
"Nếu có ai đoan chánh như con gái của mình thì sẽ gả con gái cho họ. Mình nghe Đạo sư Năng Nhân thuộc dòng tộc Năng Nhân, có thân màu vàng rất hy hữu trên đời. Mình hãy dẫn theo con gái đến đó và gả cho người ấy."

即tức 便tiện 將tương 至chí 佛Phật 所sở為vì 佛Phật 作tác 禮lễ白bạch 佛Phật 言ngôn
Ông lập tức dẫn theo con gái đến chỗ của Phật, rồi đảnh lễ và thưa với Phật rằng:

我ngã 女nữ 好hảo 潔khiết世thế 間gian 無vô 雙song年niên 大đại 應ưng 嫁giá世thế 無vô 匹thất 偶ngẫu瞿Cù 曇Đàm 端đoan 正chánh可khả 以dĩ 為vi 雙song故cố 遠viễn 將tương 來lai以dĩ 配phối 世Thế 尊Tôn
"Ái nữ của tôi rất mỹ lệ và xinh đẹp tuyệt trần. Ái nữ đã đến lúc lấy chồng nhưng chẳng một ai xứng đôi vừa ý. Chỉ có tướng mạo đoan chánh của Đạo sư Năng Nhân mới có thể xứng đôi. Do đó tôi từ xa dẫn theo con gái đến đây và muốn gả cho Thế Tôn."

佛Phật 告cáo 吉Cát 星Tinh
Phật bảo Phạm chí Cát Tinh:

卿khanh 女nữ 端đoan 正chánh是thị 卿khanh 家gia 好hảo如như 我ngã 之chi 好hảo是thị 諸chư 佛Phật 好hảo我ngã 之chi 所sở 好hiếu其kỳ 道đạo 不bất 同đồng卿khanh 自tự 譽dự 女nữ端đoan 正chánh 姝xu 好hảo譬thí 如như 畫họa 瓶bình中trung 盛thình 屎thỉ 尿niệu有hữu 何hà 奇kỳ 特đặc好hảo 為vi 所sở 在tại著trước 眼nhãn 耳nhĩ 鼻tị 口khẩu身thân 之chi 大đại 賊tặc面diện 首thủ 端đoan 正chánh身thân 之chi 大đại 患hoạn破phá 家gia 滅diệt 族tộc殺sát 親thân 害hại 子tử皆giai 由do 女nữ 色sắc吾ngô 為vi 沙Sa 門Môn一nhất 身thân 獨độc 立lập由do 尚thượng 恐khủng 危nguy況huống 受thọ 禍họa 災tai殘tàn 賊tặc 之chi 貨hóa 也dã卿khanh 自tự 將tương 去khứ吾ngô 不bất 受thọ 之chi
"Sự xinh đẹp của con gái ông là điều tốt đẹp của gia đình ông. Còn sự tốt đẹp của Ta là sự tốt đẹp của chư Phật. Sự quan niệm tốt đẹp giữa ông và Ta chẳng giống nhau. Ông tự khen con gái của mình xinh đẹp mỹ lệ, nhưng dưới mắt của Ta thì ví như cái lọ vẽ chứa phân và nước tiểu. Có gì mà đặc biệt chứ? Cái đẹp ở nơi mắt, tai, mũi, miệng là những tên giặc tàn bạo của thân. Khuôn mặt đẹp xinh là mối hiểm họa của thân. Có kẻ hủy diệt gia tộc hoặc giết hại thân quyến, tất cả đều là do sắc đẹp của nam nữ. Ta là một Đạo Nhân, một mình tự do mà còn sợ nguy hiểm. Huống nữa là nhận lấy thêm tai họa từ những tên giặc tàn bạo kia. Ông hãy tự mang trở về đi. Ta không nhận."

於ư 是thị 梵Phạm 志Chí瞋sân 恚khuể 便tiện 去khứ到đáo 優Ưu 填Điền 王Vương 所sở
Bấy giờ Phạm Chí nổi sân bỏ đi, rồi đến vương cung của vua Xuất Ái.

讚tán 女nữ 姿tư 媚mị具cụ 白bạch 王vương 言ngôn
Ông hết lòng ca ngợi vẻ đẹp của con gái mình, rồi tâu vua rằng:

此thử 女nữ 應ưng 相tướng當đương 為vi 王vương 妃phi今kim 以dĩ 年niên 大đại故cố 送tống 與dữ 王vương
"[Tâu đại vương!] Con gái của tôi xứng đáng làm vương phi. Bây giờ ái nữ đã khôn lớn nên tôi muốn dâng lên cho đại vương."

王vương 見kiến 歡hoan 喜hỷ即tức 納nạp 受thọ 之chi拜bái 為vi 第đệ 二nhị 左tả 夫phu 人nhân即tức 以dĩ 印ấn 綬thụ金kim 銀ngân 珍trân 寶bảo賜tứ 與dữ 吉Cát 星Tinh拜bái 為vi 輔phụ 臣thần此thử 女nữ 得đắc 敘tự每mỗi 協hiệp 嫉tật 妬đố妖yêu 蠱cổ 迷mê 王vương數sổ 譖trấm 大đại 夫phu 人nhân
Khi vừa thấy con gái của Phạm Chí, nhà vua rất vui mừng và tấn phong làm vương phi. Đồng thời thưởng cho Phạm chí Cát Tinh rất nhiều vàng bạc trân bảo và còn phong ông làm phụ thần. Từ đó con gái của Phạm Chí được sủng ái, nhưng bổn tánh rất đố kỵ, chuyên mê hoặc đại vương, và nhiều lần nói gièm pha vương hậu.

如như 是thị 非phi 一nhất王vương 返phản 辱nhục 曰viết
Cứ nhiều lần như thế, một hôm nhà vua bực bội quát rằng:

卿khanh 等đẳng 妖yêu 媚mị言ngôn 返phản 不bất 遜tốn彼bỉ 人nhân 操thao 行hành 可khả 貴quý而nhi 返phản 譖trấm 之chi
"Con yêu phụ ngươi dám thốt lời vô lễ! Vương hậu là người thanh khiết cao quý mà ngươi cứ gièm pha."

此thử 女nữ 心tâm 忌kỵ猶do 欲dục 害hại 之chi數sổ 譖trấm 不bất 已dĩ王vương 頗phả 惑hoặc 之chi
Với lòng đố kỵ muốn hại vương hậu, con gái của Phạm Chí vẫn nhiều lần lại gièm pha không ngừng, luôn luôn tìm cơ hội và nhà vua dần dần cũng bị mê hoặc.

前tiền 後hậu 心tâm 謀mưu伺tứ 其kỳ 齋trai 時thời因nhân 勸khuyến 白bạch 王vương
Khi dò xét được ngày trai giới của vương hậu, cô ta nhân cơ hội mà tâu vua rằng:

今kim 日nhật 之chi 樂lạc宜nghi 請thỉnh 右hữu 夫phu 人nhân
"Hôm nay là một ngày tốt để hoan lạc. Xin đại vương hãy gọi vương hậu đến cùng chung vui."

王vương 便tiện 普phổ 召triệu勅sắc 令lệnh 皆giai 會hội大đại 夫phu 人nhân 持trì 齋trai獨độc 不bất 應ưng 命mệnh反phản 覆phúc 三tam 呼hô執chấp 齋trai 不bất 移di王vương 怒nộ 隆long 盛thịnh遣khiển 人nhân 拽duệ 出xuất縛phược 著trước 殿điện 前tiền欲dục 射xạ 殺sát 之chi夫phu 人nhân 不bất 怖bố一nhất 心tâm 歸quy 佛Phật王vương 自tự 射xạ 之chi 箭tiễn還hoàn 向hướng 王vương 後hậu射xạ 輒triếp 還hoàn數sổ 箭tiễn 亦diệc 爾nhĩ
Nhà vua liền sắc lệnh cho tất cả hậu cung đến dự yến tiệc. Do thọ trì trai giới nên chỉ một mình vương hậu không tuân lệnh. Nhà vua cho gọi đến ba lần nhưng vương hậu đang thọ trì trai giới nên vẫn không đến. Nhà vua nổi cơn thịnh nộ, sai người lôi vương hậu ra khỏi cung, rồi cột ở trước điện và muốn dùng tên bắn chết. Lúc ấy vương hậu chẳng kinh sợ và nhất tâm niệm Phật. Nhà vua đích thân bắn tên nhắm về hướng vương hậu, nhưng dù bắn mấy lần mà các mũi tên đều bay ngược trở lại và rớt ở trước nhà vua.

時thời 王vương 大đại 怖bố自tự 解giải 而nhi 問vấn 之chi 曰viết
Nhà vua kinh hoàng, rồi tự tay mở trói cho vương hậu và hỏi rằng:

汝nhữ 有hữu 何hà 術thuật乃nãi 致trí 如như 此thử
"Nàng có pháp thuật gì mà khiến các mũi tên bay ngược trở lại như thế?"

夫phu 人nhân 對đối 曰viết
Vương hậu tâu rằng:

唯duy 事sự 如Như 來Lai歸quy 命mạng 三Tam 尊Tôn朝triêu 奉phụng 佛Phật 齋trai過quá 中trung 不bất 飡xan加gia 行hành 八bát 事sự飾sức 不bất 近cận 身thân必tất 是thị 世Thế 尊Tôn哀ai 顧cố 若nhược 茲tư
"Thiếp chỉ phụng sự Như Lai và quy y Tam Bảo. Từ sáng thiếp đã thọ trì trai giới của Phật, quá ngọ không ăn, giữ trọn tám giới, và không trang điểm. Đây chắc chắn là do uy lực của Thế Tôn đã thương xót che chở."

王vương 曰viết
Nhà vua nói rằng:

善thiện 哉tai豈khởi 可khả 言ngôn 不phủ
"Thật kỳ diệu không thể diễn tả được!"

即tức 出xuất 吉Cát 星Tinh 女nữ還hoàn 其kỳ 父phụ 母mẫu以dĩ 大đại 夫phu 人nhân正chánh 理lý 宮cung 內nội王vương 與dữ 大đại 夫phu 人nhân後hậu 宮cung 太thái 子tử嚴nghiêm 駕giá 群quần 臣thần往vãng 到đáo 佛Phật 所sở作tác 禮lễ 卻khước 坐tọa叉xoa 手thủ 聽thính 法Pháp王vương 即tức 白bạch 佛Phật具cụ 以dĩ 如như 事sự向hướng 佛Phật 陳trần 之chi
Lúc ấy nhà vua liền ra lệnh đuổi con gái của Phạm chí Cát Tinh trở về nhà của cha mẹ nàng. Sau đó nhà vua truyền lệnh chuẩn bị ngựa xe, rồi cùng quần thần, vương hậu, thái tử, và hậu cung thể nữ đi đến chỗ của Phật. Khi đến nơi, họ đảnh lễ rồi ngồi xuống và chắp tay nghe Pháp. Sau đó nhà vua hướng về Đức Phật và kể rõ tường tận mọi việc đã xảy ra.

佛Phật 告cáo 大đại 王vương
Phật bảo đại vương rằng:

妖yêu 蠱cổ 女nữ 人nhân有hữu 八bát 十thập 四tứ 態thái大đại 態thái 有hữu 八bát慧tuệ 人nhân 所sở 惡ác
"Yêu nữ mê hoặc có 84 loại tánh nết xấu. Tuy nhiên có tám loại tánh nết cực xấu mà người trí quở trách thậm tệ.

何hà 謂vị 為vi 八bát
Những gì là tám?

一nhất 者giả嫉tật 妬đố二nhị 者giả妄vọng 瞋sân三tam 者giả罵mạ 詈lị四tứ 者giả咒chú 詛trớ五ngũ 者giả鎮trấn 厭yếm六lục 者giả慳san 貪tham七thất 者giả好hảo 飾sức八bát 者giả含hàm 毒độc
1. đố kỵ
2. giận dữ vô cớ
3. mắng chửi
4. trù ếm
5. dùng bùa ngải thư yếm
6. keo kiệt
7. ưa trang sức diêm dúa
8. ôm lòng độc hại

是thị 為vi 八bát 大đại 態thái
Đây là tám loại tánh nết cực xấu."

於ư 是thị 世Thế 尊Tôn即tức 說thuyết 偈kệ 言ngôn
Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:

天thiên 雨vũ 七thất 寶bảo
欲dục 猶do 無vô 厭yếm
樂lạc 少thiểu 苦khổ 多đa
覺giác 之chi 為vi 賢hiền

"Dù trời mưa bảy báu
Kẻ tham vẫn chưa thỏa
Vui ít đời nhiều khổ
Ai giác làm thánh hiền

雖tuy 有hữu 天thiên 欲dục
慧tuệ 捨xả 不bất 貪tham
樂nhạo 離ly 恩ân 愛ái
為vi 佛Phật 弟đệ 子tử

Tuy có phước lạc trời
Bậc trí xả chẳng tham
Ân ái chẳng muốn ham
Đó là đệ tử Phật"

佛Phật 告cáo 大đại 王vương
Phật bảo đại vương rằng:

人nhân 行hành 罪tội 福phước各các 有hữu 本bổn 性tánh所sở 受thọ 影ảnh 報báo萬vạn 倍bội 不bất 同đồng若nhược 行hành 六lục 德đức持trì 齋trai 福phước 多đa諸chư 佛Phật 所sở 譽dự終chung 生sanh 梵Phạm 天Thiên福phước 樂lạc 自tự 然nhiên
"Người đời tạo tội hay phước đều là do bổn tánh của mỗi người. Cho nên quả báo lãnh thọ của họ rất khác xa muôn phần. Nếu ai có thể tu hành Phật Pháp, ăn chay trì giới, và làm nhiều việc phước lành thì sẽ được chư Phật ngợi khen. Sau khi mạng chung, họ sẽ sanh lên cõi Phạm Thiên để thọ hưởng phước lạc tự nhiên."

佛Phật 說thuyết 是thị 時thời王vương 及cập 夫phu 人nhân婇thể 女nữ 大đại 臣thần一nhất 切thiết 心tâm 解giải皆giai 得đắc 道Đạo 迹tích
Khi Phật nói lời ấy xong, nhà vua cùng quần thần, vương hậu và hậu cung thể nữ, tất cả đều tỏ ngộ và thấy dấu Đạo.

沙Sa 門Môn 品Phẩm 第đệ 三tam 十thập 四tứ
Phẩm 34: Đạo Nhân


昔tích 佛Phật 在tại 舍Xá 衛Vệ 國Quốc精tinh 舍xá 之chi 中trung為vì 天thiên 龍long 鬼quỷ 神thần國quốc 王vương 人nhân 民dân 說thuyết 法Pháp
Thuở xưa Đức Phật thuyết Pháp cho hàng trời rồng, quỷ thần, quốc vương, và nhân dân ở Tinh xá Kỳ Viên gần thành Phong Đức.

時thời 有hữu 一nhất 年niên 少thiếu 比Bỉ 丘Khâu晨thần 旦đán 著trước 衣y 服phục柱trụ 杖trượng 持trì 鉢bát至chí 大đại 村thôn 中trung 分phân 衛vệ
Vào một buổi sáng sớm nọ, có một vị Bhikṣu trẻ tuổi đắp y cầm bát, và mang theo tích trượng đi vào thôn trang khất thực.

時thời 大đại 道đạo 邊biên有hữu 官quan 菜thái 園viên外ngoại 面diện 種chúng 黍thử 穄tế其kỳ 田điền 外ngoại 草thảo 中trung施thi 張trương 發phát 箭tiễn若nhược 有hữu 蟲trùng 獸thú盜đạo 賊tặc 來lai 者giả觸xúc 網võng 箭tiễn 發phát中trúng 箭tiễn 則tắc 死tử有hữu 一nhất 端đoan 正chánh年niên 少thiếu 女nữ 子tử獨độc 守thủ 此thử 園viên人nhân 欲dục 往vãng 者giả遙diêu 喚hoán 示thị 道đạo乃nãi 得đắc 入nhập 園viên不bất 知tri 道đạo 者giả必tất 為vị 發phát 箭tiễn 所sở 殺sát而nhi 此thử 女nữ 子tử獨độc 守thủ 悲bi 歌ca其kỳ 聲thanh 妖yêu 亮lượng聽thính 者giả 莫mạc 不bất頓đốn 車xa 止chỉ 馬mã迴hồi 旋toàn 蹀điệp 躡niếp而nhi 欲dục 趣thú 之chi盤bàn 桓hoàn 不bất 去khứ皆giai 坐tọa 聲thanh 響hưởng
Khi ấy ở gần cạnh đại lộ có một vườn rau của một vị quan và có trồng những cây kê. Ở phía ngoài khu vườn có cỏ bao bọc và thiết bị những cơ quan cung tiễn. Nếu có dã thú hay đạo tặc tiến vào mà chạm trúng cơ quan thì sẽ bị tên bắn chết ngay. Đương thời chỉ có một thiếu nữ trông giữ khu vườn này. Như có ai muốn đến khu vườn kia, họ từ xa gọi lớn và sẽ được cô gái chỉ đường thì mới có thể vào. Còn những ai không biết đường mà tùy tiện xông vào thì chắc chắn sẽ bị tên bắn chết. Khi ấy cô thiếu nữ này một mình trông giữ khu vườn và cất lên tiếng hát. Giọng hát ngọt ngào của cô khiến người qua đường không ai là chẳng dừng xe xuống ngựa để nghe. Âm thanh quyến rũ đến nỗi dù họ đã miễn cưỡng bước đi, nhưng cũng bồi hồi trở lại và ngồi xuống lắng nghe.

時thời 此thử 比Bỉ 丘Khâu分phân 衛vệ 行hành 還hoàn道đạo 聞văn 歌ca 聲thanh側trắc 耳nhĩ 聽thính 音âm五ngũ 情tình 逸dật 豫dự心tâm 迷mê 意ý 亂loạn貪tham 著trước 不bất 捨xả想tưởng 是thị 女nữ 人nhân必tất 大đại 端đoan 正chánh思tư 想tưởng 欲dục 見kiến坐tọa 起khởi 言ngôn 語ngữ便tiện 旋toàn 往vãng 趣thú未vị 到đáo 中trung 間gian意ý 志chí 怳hoảng 惚hốt手thủ 失thất 錫tích 杖trượng肩kiên 失thất 衣y 鉢bát殊thù 不bất 自tự 覺giác佛Phật 以dĩ 三Tam 達Đạt見kiến 此thử 比Bỉ 丘Khâu小tiểu 復phục 前tiền 行hành為vị 箭tiễn 所sở 殺sát福phước 應ưng 得đắc 道Đạo為vị 愚ngu 所sở 迷mê欲dục 蓋cái 所sở 覆phú憐lân 愍mẫn 其kỳ 愚ngu欲dục 度độ 脫thoát 之chi
Bấy giờ có một vị Bhikṣu trên đường khất thực trở về. Giữa đường chợt nghe tiếng hát qua tai, khiến tình thức năm căn của ngài say đắm, tâm ý mê loạn và lưu luyến chẳng rời. Ngài suy nghĩ về người con gái này chắc phải rất xinh đẹp, và mơ tưởng muốn gặp mặt để chuyện trò. Và thế là ngài liền đi về hướng khu vườn. Giữa lúc còn chưa đến, cõi lòng của ngài hoảng hốt mê mang, làm rơi tích trượng với bát trên tay, và Pháp y khoác trên vai tuột xuống hồi nào cũng chẳng hay. Với trí tuệ của Ba Minh, Đức Phật nhìn thấy nếu vị Bhikṣu này tiến thêm vài bước nữa thì sẽ bị tên bắn chết. Biết được phước đức nhân duyên sắp đắc Đạo và ngài chỉ nhất thời bị ái dục si mê che lấp, Đức Phật xót thương cho sự ngu muội và muốn độ thoát ông ấy.

自tự 化hóa 作tác 白bạch 衣y往vãng 到đáo 其kỳ 邊biên以dĩ 偈kệ 呵ha 之chi 曰viết
Thế nên Đức Phật liền tự hóa thành một cư sĩ bạch y, rồi đi đến bên cạnh của vị Bhikṣu và dùng kệ quở trách rằng:

沙Sa 門Môn 何hà 行hành
如như 意ý 不bất 禁cấm
步bộ 步bộ 著trước 粘niêm
但đãn 隨tùy 思tư 走tẩu

"Đạo Nhân tu Pháp gì?
Nếu ý không chế phục
Từng bước nhiễm trần lao
Chỉ chạy theo tư tưởng

袈ca 裟sa 被bị 肩kiên
為vi 惡ác 不bất 損tổn
行hành 惡ác 行hành 者giả
斯tư 墮đọa 惡ác 道đạo

Pháp y khoác trên vai
Làm ác chẳng ngừng nghỉ
Ai luôn làm điều ác
Khi chết đọa địa ngục

截tiệt 流lưu 自tự 持trì
折chiết 心tâm 卻khước 欲dục
人nhân 不bất 割cát 欲dục
一nhất 意ý 猶do 走tẩu

Ra khỏi dòng ái dục
Nhiếp tâm trừ dục vọng
Phàm phu chẳng đoạn dục
Tâm ý mãi rong ruổi

為vi 之chi 為vi 之chi
必tất 強cường 自tự 制chế
捨xả 家gia 而nhi 懈giải
意ý 猶do 復phục 染nhiễm

Tu hành chớ làm ác
Tinh tấn tự điều tâm
Xuất gia mà lười biếng
Ý nhiễm lại khởi sanh

行hành 懈giải 緩hoãn 者giả
誘dụ 意ý 不bất 除trừ
非phi 淨tịnh 梵Phạm 行hành
焉yên 致trí 大đại 寶bảo

Tu hành mà lười biếng
Nhọc tâm chẳng trừ khổ
Không phải là tịnh hành
Làm sao được báu lớn?

不bất 調điều 難nan 誡giới
如như 風phong 枯khô 樹thụ
自tự 作tác 為vi 身thân
曷hạt 不bất 精tinh 進tấn

Buông lung, khó răn bảo
Như gió thổi héo cây
Tự làm tự lãnh thọ
Sao lại chẳng tinh tấn?"

說thuyết 此thử 偈kệ 已dĩ即tức 自tự 復phục 形hình相tướng 好hảo 炳bỉnh 然nhiên光quang 照chiếu 天thiên 地địa若nhược 有hữu 見kiến 者giả迷mê 解giải 亂loạn 止chỉ各các 得đắc 其kỳ 所sở比Bỉ 丘Khâu 見kiến 佛Phật心tâm 意ý 㸌hoát 開khai如như 冥minh 𨶳khuy 明minh即tức 五ngũ 體thể 投đầu 地địa為vì 佛Phật 作tác 禮lễ叩khấu 頭đầu 悔hối 過quá懺sám 悔hối 謝tạ 佛Phật內nội 解giải 止Chỉ 觀Quán即tức 得đắc 羅La 漢Hán隨tùy 佛Phật 還hoàn 精tinh 舍xá聽thính 者giả 無vô 數số皆giai 得đắc 法Pháp 眼nhãn
Khi nói những bài kệ này xong, Đức Phật hiện lại thân tướng sáng chói, ánh sáng chiếu khắp đất trời. Nếu có ai trông thấy, tâm mê loạn giải trừ và liền khôi phục bổn tánh. Khi vị Bhikṣu thấy Phật, tâm ý bỗng nhiên khai mở, như trong tối nhìn thấy ánh sáng. Ngài lập tức đảnh lễ sát đất, cúi đầu sám hối lỗi lầm, nội tâm liễu giải Chỉ Quán, và liền đắc Đạo Ưng Chân, rồi sau đó theo Phật trở về tinh xá. Lúc ấy có vô số người đến nghe Pháp cũng đều được Pháp nhãn thanh tịnh.

梵Phạm 志Chí 品Phẩm 第đệ 三tam 十thập 五ngũ
Phẩm 35: Tịnh Hành


昔tích 私Tư 訶Ha 牒Điệp 國Quốc中trung 有hữu 大đại 山sơn名danh 私Tư 休Hưu 遮Già 他Tha山sơn 中trung 有hữu 梵Phạm 志Chí五ngũ 百bách 餘dư 人nhân各các 達đạt 神thần 通thông
Thuở xưa ở nước Tư-ha-điệp có một ngọn núi rất lớn, tên là Tư-hưu-già-tha. Ở trong núi có hơn 500 Phạm Chí đang tu Đạo và ai nấy đều đắc thần thông.

自tự 相tương 謂vị 曰viết
Họ tự nói với nhau rằng:

吾ngô 等đẳng 所sở 得đắc正chánh 是thị 涅Niết 槃Bàn
"Sự chứng đắc của chúng ta chính là tịch diệt."

佛Phật 始thỉ 出xuất 世thế初sơ 建kiến 法Pháp 鼓cổ開khai 甘cam 露lộ 門môn此thử 等đẳng 梵Phạm 志Chí聞văn 而nhi 不bất 就tựu宿túc 福phước 應ưng 度độ佛Phật 往vãng 就tựu 之chi獨độc 行hành 無vô 侶lữ到đáo 其kỳ 路lộ 口khẩu坐tọa 一nhất 樹thụ 下hạ三Tam 昧Muội 定định 意ý放phóng 身thân 光quang 明minh照chiếu 一nhất 山sơn 中trung狀trạng 如như 失thất 火hỏa山sơn 中trung 盡tận 燃nhiên梵Phạm 志Chí 怖bố 懼cụ咒chú 水thủy 滅diệt 之chi盡tận 其kỳ 神thần 力lực不bất 能năng 使sử 滅diệt怪quái 而nhi 捨xả 走tẩu從tùng 路lộ 出xuất 山sơn遙diêu 見kiến 世Thế 尊Tôn樹thụ 下hạ 坐tọa 禪thiền譬thí 如như 日nhật 出xuất金kim 山sơn 之chi 側trắc相tướng 好hảo 炳bỉnh 然nhiên如như 月nguyệt 星tinh 中trung怪quái 是thị 何hà 神thần就tựu 而nhi 觀quan 之chi佛Phật 命mệnh 令linh 坐tọa問vấn 所sở 從tùng 來lai
Bấy giờ Đức Phật mới vừa xuất hiện ở thế gian để thổi trống Pháp và khai mở cửa cam lộ. Tuy các Phạm Chí này đều nghe có Phật nhưng không ai đến thân cận. Biết phước đức ở đời trước của họ đáng được hóa độ nên Đức Phật một mình đi đến nơi kia. Khi tới con đường ra vào núi, Đức Phật ngồi ở dưới một gốc cây, nhiếp ý vào Đẳng Trì, và thân phóng quang minh chiếu khắp cả núi. Ánh sáng đó tựa như rừng lửa và cảnh tượng như khắp núi rừng bị đốt sạch. Các Phạm Chí kinh hoàng và đọc chú vào nước để muốn dập tắt. Dù đã dùng hết thần lực mà vẫn không thể diệt trừ, nên họ kinh hãi bỏ chạy. Từ con đường xuống núi, họ từ xa trông thấy Thế Tôn đang tọa thiền ở dưới gốc cây, ví như mặt trời mọc ở bên cạnh một hòn núi vàng, tướng hảo rực rỡ như mặt trăng ở giữa các vì sao. Họ kinh ngạc không biết là vị thần nào nên vội đến xem. Khi ấy Đức Phật bảo họ hãy ngồi xuống và hỏi từ đâu đến đây.

梵Phạm 志Chí 對đối 曰viết
Các Phạm Chí đáp rằng:

止chỉ 此thử 山sơn 中trung修tu 道Đạo 來lai 久cửu旦đán 欻hốt 火hỏa 起khởi燒thiêu 山sơn 樹thụ 木mộc怖bố 而nhi 走tẩu 出xuất
"Từ lâu chúng tôi đã ở trong núi này tu Đạo. Bỗng vào sáng sớm hôm nay có lửa bốc cháy và thiêu đốt tất cả cây cối trong núi, nên chúng tôi sợ hãi bỏ chạy ra ngoài."

佛Phật 告cáo 梵Phạm 志Chí
Phật bảo các Phạm Chí:

此thử 是thị 福phước 火hỏa不bất 傷thương 損tổn 人nhân欲dục 滅diệt 卿khanh 等đẳng癡si 結kết 之chi 垢cấu
"Đây là phước hỏa. Nó sẽ không tổn thương người, và còn có thể diệt trừ si mê trần cấu của các ông."

梵Phạm 志Chí 師sư 徒đồ顧cố 相tương 謂vị 曰viết
Các thầy trò Phạm Chí nhìn ngơ ngác và bảo nhau rằng:

是thị 何hà 道Đạo 士sĩ 也dã九cửu 十thập 六lục 種chủng未vị 曾tằng 有hữu 此thử
"Đây là người tu Đạo gì mà trong 96 nhóm đạo thuật, mình chưa từng thấy qua?"

師sư 曰viết
Có một vị thầy Phạm Chí nói rằng:

曾tằng 聞văn 白Bạch 淨Tịnh 王vương 子tử名danh 曰viết 悉Tất 達Đạt不bất 樂nhạo 聖thánh 位vị出xuất 家gia 求cầu 佛Phật將tương 無vô 是thị 也dã
"Ta từng nghe vua Tịnh Phạn có một thái tử tên là Nhất Thiết Nghĩa Thành, không tham luyến vương vị mà xuất gia cầu Đạo. Chắc đây là Ngài đó."

徒đồ 等đẳng 啟khải 師sư
Các đệ tử thưa với thầy rằng:

可khả 共cộng 問vấn 佛Phật梵Phạm 志Chí 所sở 行hành事sự 為vi 如như 法Pháp 不phủ 也dã
"Vậy thì chúng ta hãy cùng hỏi Phật về những sự tu hành của Phạm Chí có thật đúng như Pháp chăng?"

師sư 徒đồ 之chi 等đẳng共cộng 起khởi 白bạch 佛Phật
Các thầy trò Phạm Chí đồng thưa với Phật rằng:

梵Phạm 志Chí 經kinh 法pháp名danh 四tứ 無vô 礙ngại天thiên 文văn 地địa 理lý王vương 者giả 治trị 國quốc領lãnh 民dân 之chi 法pháp并tinh 九cửu 十thập 六lục 種chủng 道đạo 術thuật所sở 應ưng 行hành 法pháp此thử 經kinh 為vi 是thị涅Niết 槃Bàn 法Pháp 不phủ願nguyện 佛Phật 解giải 說thuyết開khai 化hóa 未vị 聞văn
"Kinh pháp của Phạm Chí được xưng là bốn bộ minh luận vô ngại, bao gồm thiên văn địa lý, phương pháp quốc vương cai trị và thống lãnh dân chúng. 96 nhóm đạo thuật đều nương theo đó tu hành. Kinh này có phải là Pháp tịch diệt chăng? Xin Phật hãy khai thị và giảng giải để chúng tôi được nghe."

佛Phật 告cáo 梵Phạm 志Chí
Phật bảo các Phạm Chí:

善thiện 聽thính 思tư 之chi吾ngô 從tùng 宿túc 命mạng無vô 數số 劫kiếp 來lai常thường 行hành 此thử 經kinh亦diệc 得đắc 五ngũ 通thông移di 山sơn 住trụ 流lưu更canh 歷lịch 生sanh 死tử不bất 可khả 計kế 數sổ既ký 不bất 得đắc 涅Niết 槃Bàn亦diệc 復phục 不bất 聞văn有hữu 得đắc 道Đạo 者giả如như 汝nhữ 等đẳng 行hành非phi 名danh 梵Phạm 志Chí
"Hãy lắng nghe và khéo tư duy! Từ vô số kiếp ở đời trước, ta thường tu hành các loại kinh thư đó và cũng đắc năm loại thần thông, có thể dời non và làm nước ngừng chảy. Tuy đã trải qua vô số lần sanh tử mà vẫn không đạt đến tịch diệt, và cũng chưa từng nghe có ai tu pháp đó mà đắc Đạo cả. Những sự tu hành của các ông không phải là tịnh hành."

於ư 是thị 世Thế 尊Tôn以dĩ 偈kệ 報báo 曰viết
Lúc bấy giờ Thế Tôn nói kệ rằng:

截tiệt 流lưu 如như 渡độ
無vô 欲dục 如như 梵Phạm
知tri 行hành 已dĩ 盡tận
是thị 謂vị 梵Phạm 志Chí

"Ra khỏi dòng ái dục
Vô dục như Phạm Thiên
Các hành đã trừ sạch
Mới là bậc tịnh hành

以dĩ 無vô 二nhị 法pháp
清thanh 淨tịnh 渡độ 淵uyên
諸chư 欲dục 結kết 解giải
是thị 謂vị 梵Phạm 志Chí

Chỉ Quán khéo tu hành
Thanh tịnh chẳng cấu uế
Đoạn trừ ái dục siết
Mới là bậc tịnh hành

非phi 蔟thốc 結kết 髮phát
名danh 為vi 梵Phạm 志Chí
誠thành 行hành 法Pháp 行hành
清thanh 白bạch 則tắc 賢hiền

Chẳng phải ai bện tóc
Gọi là bậc tịnh hành
Chân thành tu tập Pháp
Thanh tịnh làm thánh hiền

飾sức 髮phát 無vô 慧tuệ
草thảo 衣y 何hà 施thi
內nội 不bất 離ly 著trước
外ngoại 捨xả 何hà 益ích

Bện tóc nhưng vô trí
Áo cỏ mặc phô trương
Bên trong chẳng lìa nhiễm
Ngoài xả có ích gì?

去khứ 婬dâm 怒nộ 癡si
憍kiêu 慢mạn 諸chư 惡ác
如như 蛇xà 脫thoát 皮bì
是thị 謂vị 梵Phạm 志Chí

Diệt trừ tham sân si
Kiêu mạn các việc ác
Như rắn lột thay da
Mới là bậc tịnh hành

斷đoạn 絕tuyệt 世thế 事sự
口khẩu 無vô 麤thô 言ngôn
八Bát 道Đạo 審thẩm 諦đế
是thị 謂vị 梵Phạm 志Chí

Đoạn tuyệt chuyện thế sự
Không thốt lời ác ôn
Quán sát Tám Chánh Đạo
Mới là bậc tịnh hành

已dĩ 斷đoạn 恩ân 愛ái
離ly 家gia 無vô 欲dục
愛ái 著trước 已dĩ 盡tận
是thị 謂vị 梵Phạm 志Chí

Ân ái đã đoạn trừ
Xuất gia lìa ái dục
Ái dục nếu trừ sạch
Mới là bậc tịnh hành

離ly 人nhân 聚tụ 處xứ
不bất 墮đọa 天thiên 聚tụ
諸chư 聚tụ 不bất 歸quy
是thị 為vi 梵Phạm 志Chí

Lìa xa chốn đông người
Không tham hưởng phước trời
Chẳng nương các nơi đó
Mới là bậc tịnh hành

自tự 識thức 宿túc 命mạng
本bổn 所sở 更cánh 來lai
生sanh 死tử 得đắc 盡tận
叡duệ 通thông 道Đạo 玄huyền
明minh 如như 能Năng 嘿Mặc
是thị 謂vị 梵Phạm 志Chí

Tự biết việc đời trước
Vốn từ nơi nào đến
Tận trừ gốc sanh tử
Thông triệt Đạo huyền thâm
Chiếu sáng như Năng Nhân
Mới là bậc tịnh hành"

佛Phật 說thuyết 偈kệ 已dĩ告cáo 諸chư 梵Phạm 志Chí
Khi nói kệ xong, Đức Phật bảo các Phạm Chí rằng:

汝nhữ 等đẳng 所sở 修tu自tự 謂vị 已dĩ 達đạt 涅Niết 槃Bàn如như 少thiểu 水thủy 魚ngư豈khởi 有hữu 長trường 樂lạc合hợp 本bổn 無vô 者giả 也dã
"Các ông cho rằng những sự tu hành của mình đã đạt đến tịch diệt. Kỳ thật việc ấy, như cá đang thiếu nước. Thử hỏi có gì vui? Sanh mạng vốn vô thường, hãy nỗ lực tinh tấn tu hành!"

梵Phạm 志Chí 聞văn 經Kinh五ngũ 情tình 內nội 發phát 喜hỷ 悅duyệt長trường 跪quỵ 白bạch 佛Phật
Khi nghe lời Phật dạy, trong lòng của các Phạm Chí vui mừng hớn hở, rồi quỳ hai gối và thưa với Phật rằng:

願nguyện 為vi 弟đệ 子tử
"[Thưa Thế Tôn!] Chúng con muốn xin làm đệ tử của Ngài."

頭đầu 髮phát 自tự 墮đọa即tức 作tác 沙Sa 門Môn本bổn 行hành 清thanh 淨tịnh因nhân 而nhi 得đắc 道Đạo為vi 阿A 羅La 漢Hán天thiên 龍long 鬼quỷ 神thần皆giai 得đắc 道Đạo 迹tích
Lúc đó, tóc trên đầu của các Phạm Chí tự rụng và liền trở thành Đạo Nhân. Do bởi sự tu hành thanh tịnh của họ bao năm qua nên tất cả liền đắc Đạo Ưng Chân. Bấy giờ hàng trời rồng và quỷ thần đang nghe Pháp cũng đều thấy dấu Đạo.

泥Nê 洹Hoàn 品Phẩm 第đệ 三tam 十thập 六lục
Phẩm 36: Tịch Diệt


昔tích 佛Phật 在tại 王Vương 舍Xá 城Thành靈Linh 鷲Thứu 山Sơn 中trung時thời 與dữ 諸chư 比Bỉ 丘Khâu千thiên 二nhị 百bách 五ngũ 十thập 人nhân 俱câu
Thuở xưa Đức Phật cùng với 1.250 vị Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá.

時thời 摩Ma 竭Kiệt 國quốc 王vương號hiệu 名danh 阿A 闍Xà 世Thế所sở 領lãnh 五ngũ 百bách 國quốc各các 有hữu 姓tánh 名danh近cận 有hữu 一nhất 國quốc名danh 曰viết 越Việt 祇Kỳ不bất 順thuận 王vương 命mệnh
Bấy giờ vua của nước Thiện Thắng tên là Vị Sanh Oán, thống lãnh 500 nước. Mỗi nước đều có tên gọi riêng. Ở gần của nước Thiện Thắng có một quốc gia không chịu thần phục, tên là Tăng Thắng.

欲dục 往vãng 伐phạt 之chi即tức 召triệu 群quần 臣thần講giảng 宣tuyên 議nghị 曰viết
Do đó vua Vị Sanh Oán muốn đến chinh phạt nên liền triệu tập quần thần và nói rằng:

越Việt 祇Kỳ 國Quốc 人nhân富phú 樂lạc 熾sí 盛thịnh多đa 出xuất 珍trân 寶bảo不bất 首thủ 伏phục 於ư 我ngã寧ninh 可khả 起khởi 兵binh往vãng 伐phạt 之chi 不phủ
"Nhân dân của nước Tăng Thắng giàu sang thịnh vượng và trong nước sản xuất nhiều trân bảo. Bởi vậy mà họ chẳng chịu thần phục trẫm. Các khanh nghĩ có nên khởi binh đến chinh phạt chăng?"

國quốc 有hữu 賢hiền 公công 承thừa 相tướng名danh 曰viết 雨Vũ 舍Xá對đối 曰viết
Đương thời trong nước có vị thừa tướng trung thành, tên là Vũ Xá, tâu rằng:

唯dụy 然nhiên
"[Tâu đại vương!] Có thể lắm!"

王vương 告cáo 雨Vũ 舍Xá
Nhà vua bảo Thừa tướng Vũ Xá rằng:

佛Phật 去khứ 是thị 不bất 遠viễn聖thánh 哲triết 三Tam 達Đạt靡mĩ 事sự 不bất 貫quán汝nhữ 持trì 吾ngô 聲thanh往vãng 至chí 佛Phật 所sở如như 卿khanh 意ý 智trí委ủy 悉tất 問vấn 之chi欲dục 往vãng 伐phạt 彼bỉ寧ninh 得đắc 勝thắng 不phủ
"Đức Phật đang ở cách đây không xa. Với Ba Minh thông triệt của bậc thánh, không việc gì mà chẳng rõ. Khanh hãy mang lời của trẫm đến chỗ của Phật và thưa hỏi rằng, nếu khởi binh đến chinh phạt thì sẽ được thắng lợi chăng?"

承thừa 相tướng 受thọ 教giáo即tức 嚴nghiêm 車xa 馬mã往vãng 至chí 精tinh 舍xá前tiền 到đáo 佛Phật 所sở頭đầu 面diện 著trước 地địa為vì 佛Phật 作tác 禮lễ佛Phật 命mệnh 令linh 坐tọa
Thừa tướng Vũ Xá tuân mệnh. Ông lập tức chuẩn bị xe ngựa để đi đến tinh xá. Khi đến ở trước Phật, thừa tướng cúi đầu sát đất và đảnh lễ Phật. Lúc ấy Đức Phật bảo ông hãy ngồi xuống.

公công 即tức 就tựu 坐tọa佛Phật 問vấn 國quốc 承thừa 相tướng
Khi thừa tướng đã ngồi xuống, Phật hỏi rằng:

從tùng 何hà 所sở 來lai
"Ông từ đâu đến?"

公công 言ngôn
Thừa tướng thưa rằng:

王vương 使sử 臣thần 來lai稽khể 首thủ 佛Phật 足túc問vấn 訊tấn 起khởi 居cư飡xan 食thực 如như 常thường
"[Thưa Thế Tôn!] Đại vương sai con đến lễ bái Đức Phật và thăm hỏi Thế Tôn đi đứng và ăn uống có được như ý chăng?"

佛Phật 即tức 問vấn 公công
Phật hỏi thừa tướng:

王vương 及cập 國quốc 土thổ人nhân 民dân 臣thần 下hạ皆giai 自tự 平bình 安an 不phủ
"Đại vương, quần thần, và nhân dân trong nước đều được bình an chứ?"

公công 言ngôn
Thừa tướng thưa rằng:

國quốc 主chủ 及cập 民dân皆giai 蒙mông 佛Phật 恩ân
"[Thưa Thế Tôn!] Nhờ hồng ân của Phật, đại vương và thần dân thảy đều bình an."

公công 白bạch 佛Phật 言ngôn
Sau đó thừa tướng bạch Phật rằng:

王vương 與dữ 越Việt 祇Kỳ 國Quốc 有hữu 嫌hiềm欲dục 往vãng 伐phạt 之chi於ư 佛Phật 聖thánh 意ý為vi 可khả 得đắc 勝thắng 不phủ
"[Bạch Thế Tôn!] Đại vương và nước Tăng Thắng có hiềm khích. Đại vương muốn khởi binh đến chinh phạt. Chẳng hay thánh ý của Phật như thế nào? Có thể thắng không?"

佛Phật 告cáo 承thừa 相tướng
Phật bảo thừa tướng:

是thị 越Việt 祇Kỳ 國Quốc 人nhân 民dân奉phụng 行hành 七thất 法Pháp不bất 可khả 勝thắng 之chi王vương 可khả 諦đế 思tư勿vật 妄vọng 舉cử 動động
"Nhân dân của nước Tăng Thắng phụng hành bảy Pháp nên không thể thắng họ. Ông hãy chuyển lời đến đại vương, hãy đắn đo suy nghĩ và chớ vội hành động."

公công 即tức 問vấn 佛Phật
Thừa tướng bạch Phật rằng:

何hà 等đẳng 七thất 法Pháp
"[Bạch Thế Tôn!] Bảy Pháp đó là những gì?"

佛Phật 言ngôn
Đức Phật bảo:

越Việt 祇Kỳ 國Quốc 人nhân數sác 相tương 聚tụ 會hội講giảng 議nghị 正Chánh 法Pháp修tu 福phước 自tự 守thủ以dĩ 此thử 為vi 常thường是thị 謂vị 為vi 一nhất
"Nhân dân của nước Tăng Thắng luôn cùng tụ hội, diễn giảng Chánh Pháp, tự mình tu phước đức, và cho đó là việc đương nhiên. Đây là thứ nhất.

越Việt 祇Kỳ 國Quốc 人nhân君quân 臣thần 常thường 和hòa所sở 任nhậm 忠trung 良lương教giáo 諫gián 承thừa 用dụng不bất 相tương 違vi 戾lệ是thị 謂vị 為vi 二nhị
Quốc vương, quần thần, và nhân dân của nước Tăng Thắng luôn hòa thuận, bậc trung lương lãnh đạo, quân vương tiếp nhận lời can gián của quần thần, và không chống đối lẫn nhau. Đây là thứ nhì.

越Việt 祇Kỳ 國Quốc 人nhân奉phụng 法pháp 相tương 牽khiên無vô 取thủ 無vô 捨xả不bất 敢cảm 犯phạm 過quá上thượng 下hạ 循tuần 常thường是thị 謂vị 為vi 三tam
Nhân dân của nước Tăng Thắng đều tuân thủ pháp luật, không trộm cắp, không dám phạm tội, và trên dưới một mực tuân thủ. Đây là thứ ba.

越Việt 祇Kỳ 國Quốc 人nhân禮lễ 化hóa 謹cẩn 敬kính男nam 女nữ 有hữu 別biệt長trưởng 幼ấu 相tương 承thừa不bất 失thất 儀nghi 法pháp是thị 謂vị 為vi 四tứ
Nhân dân của nước Tăng Thắng kính trọng lễ nghĩa, trai gái giữ đúng luân lý, già trẻ kính trọng lẫn nhau, và không mất lễ nghi. Đây là thứ tư.

越Việt 祇Kỳ 國Quốc 人nhân孝hiếu 養dưỡng 父phụ 母mẫu遜tốn 悌đễ 師sư 長trưởng受thọ 誡giới 教giáo 誨hối以dĩ 為vi 國quốc 則tắc是thị 謂vị 為vi 五ngũ
Nhân dân của nước Tăng Thắng hiếu dưỡng cha mẹ, tôn kính sư trưởng, tiếp thọ giáo huấn, và xem đó là phép tắc của quốc gia. Đây là thứ năm.

越Việt 祇Kỳ 國Quốc 人nhân承thừa 天thiên 則tắc 地địa敬kính 畏úy 社xã 稷tắc奉phụng 順thuận 四tứ 時thời民dân 農nông 不bất 廢phế是thị 謂vị 為vi 六lục
Nhân dân của nước Tăng Thắng thuận theo đạo lý của thiên địa, kính trọng thần linh, tùy thuận bốn mùa và chăm lo nông nghiệp. Đây là thứ sáu.

越Việt 祇Kỳ 國Quốc 人nhân尊tôn 道Đạo 敬kính 德đức國quốc 有hữu 沙Sa 門Môn得đắc 道Đạo 應Ưng 真Chân方phương 遠viễn 來lai 者giả供cúng 養dường 衣y 被bị床sàng 臥ngọa 醫y 藥dược是thị 謂vị 為vi 七thất
Nhân dân của nước Tăng Thắng tôn kính Đạo đức, trong nước có những vị đắc Đạo Ưng Chân, và cũng hoan hỷ cúng dường y phục, giường nệm, ẩm thực, và thuốc thang cho các vị Đạo Nhân từ phương xa đến. Đây là thứ bảy.

夫phù 為vi 國quốc 主chủ行hành 此thử 七thất 法Pháp難nan 可khả 得đắc 危nguy極cực 天thiên 下hạ 兵binh共cộng 往vãng 攻công 之chi不bất 能năng 得đắc 勝thắng
Quốc vương, quần thần, và nhân dân của bất kỳ quốc gia nào thực hành bảy Pháp này thì nước của họ sẽ không thể gặp nguy hiểm. Dù có tập hợp quân binh khắp thiên hạ để cùng đến tấn công nước họ thì cũng không thể thắng."

佛Phật 告cáo 承thừa 相tướng
Phật bảo thừa tướng:

若nhược 使sử 越Việt 祇Kỳ 國Quốc 人nhân持trì 一nhất 法Pháp 者giả尚thượng 不bất 可khả 攻công何hà 況huống 盡tận 持trì如như 是thị 七thất 法Pháp
"Giả sử nhân dân của nước Tăng Thắng chỉ hành trì một Pháp thì còn không thể tấn công. Hà huống là họ đã hành trì hết bảy Pháp như vậy."

於ư 是thị 世Thế 尊Tôn即tức 說thuyết 偈kệ 言ngôn
Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:

利lợi 勝thắng 不bất 足túc 恃thị
雖tuy 勝thắng 猶do 復phục 苦khổ
當đương 自tự 求cầu 勝thắng 法Pháp
已dĩ 勝thắng 無vô 所sở 生sanh

"Thắng lợi chưa đủ nhờ
Tuy thắng vẫn còn khổ
Hãy tự cầu thắng Pháp
Đã thắng chẳng còn sanh"

雨Vũ 舍Xá 承Thừa 相Tướng聞văn 佛Phật 說thuyết 偈kệ即tức 得đắc 道Đạo 迹tích時thời 會hội 大đại 小tiểu皆giai 得đắc 須Tu 陀Đà 洹Hoàn 道Đạo
Khi nghe kệ của Phật, Thừa tướng Vũ Xá liền thấy dấu Đạo. Bấy giờ tất cả kẻ lớn người nhỏ trong chúng hội đều đắc Quả Dự Lưu.

公công 即tức 從tùng 坐tọa 起khởi白bạch 佛Phật 言ngôn
Lúc ấy thừa tướng liền từ chỗ ngồi đứng dậy và thưa với Phật rằng:

國quốc 事sự 煩phiền 多đa欲dục 還hoàn 請thỉnh 辭từ
"[Thưa Thế Tôn!] Do việc nước bề bộn, con muốn xin phép cáo lui trở về."

佛Phật 言ngôn
Đức Phật bảo:

可khả宜nghi 知tri 是thị 時thời
"Lành thay! Nên biết bây giờ chính là lúc."

即tức 從tùng 坐tọa 起khởi禮lễ 佛Phật 而nhi 去khứ還hoàn 至chí 具cụ 事sự 白bạch 王vương即tức 止chỉ 不bất 攻công持trì 佛Phật 嚴nghiêm 教giáo以dĩ 化hóa 國quốc 內nội越Việt 祇Kỳ 國Quốc 人nhân即tức 來lai 順thuận 命mệnh上thượng 下hạ 相tương 奉phụng國quốc 遂toại 興hưng 隆long
Thừa tướng liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Đức Phật rồi cáo lui. Sau khi về nước, ông trình tâu đầy đủ cho quốc vương. Do đó vua Vị Sanh Oán liền đình chỉ việc khởi binh và nghiêm trì lời Phật dạy. Sau đó dân chúng của nước Tăng Thắng cũng nghe được lời dạy của Phật cho Thừa tướng Vũ Xá nên họ cũng đến thần phục nước Thiện Thắng. Bấy giờ mọi người trong quốc gia của họ trên dưới đồng lòng và đất nước hưng thịnh thái bình.

生Sanh 死Tử 品Phẩm 第đệ 三tam 十thập 七thất
Phẩm 37: Sanh Tử


昔tích 佛Phật 在tại 舍Xá 衛Vệ 國Quốc祇Kỳ 洹Hoàn 精Tinh 舍Xá為vì 天thiên 人nhân 國quốc 王vương 大đại 臣thần廣quảng 說thuyết 妙diệu 法Pháp
Thuở xưa Đức Phật rộng thuyết diệu Pháp cho hàng trời, quốc vương, đại thần, và dân chúng ở Tinh xá Kỳ Viên gần thành Phong Đức.

有hữu 一nhất 梵Phạm 志Chí 長trưởng 者giả居cư 在tại 路lộ 側trắc財tài 富phú 無vô 數số正chánh 有hữu 一nhất 子tử其kỳ 年niên 二nhị 十thập新tân 為vi 娶thú 婦phụ
Bấy giờ có một Phạm Chí trưởng giả giàu sang vô cùng và nhà ông ở cạnh đại lộ. Ông chỉ có một đứa con trai duy nhất. Khi thiếu gia vừa tròn 20 tuổi, trưởng giả liền cưới vợ cho con.

未vị 滿mãn 七thất 日nhật夫phu 婦phụ 相tương 敬kính言ngôn 語ngữ 相tương 順thuận婦phụ 語ngứ 其kỳ 夫phu
Đôi tân lang và tân nương quấn quýt bên nhau, âu yếm ngọt ngào, và trong lúc còn chưa hết bảy ngày thì một hôm cô vợ nói với chồng rằng:

欲dục 至chí 後hậu 園viên 中trung 看khán 戲hí為vi 得đắc 爾nhĩ 不phủ
"Em muốn đến sau vườn ngắm cảnh, có được không anh?"

上thượng 春xuân 三tam 月nguyệt夫phu 婦phụ 相tương 將tương至chí 後hậu 園viên 中trung有hữu 一nhất 㮈nại 樹thụ高cao 大đại 華hoa 好hảo婦phụ 欲dục 得đắc 華hoa無vô 人nhân 與dữ 取thủ夫phu 知tri 婦phụ 意ý欲dục 得đắc 㮈nại 華hoa即tức 便tiện 上thượng 樹thụ正chánh 取thủ 一nhất 華hoa復phục 欲dục 得đắc 一nhất展triển 轉chuyển 上thượng 樹thụ乃nãi 至chí 細tế 枝chi枝chi 折chiết 墮đọa 地địa傷thương 中trung 即tức 死tử居cư 家gia 大đại 小tiểu奔bôn 波ba 跳khiêu 走tẩu往vãng 趣thú 兒nhi 所sở呼hô 天thiên 傷thương 哭khốc斷đoạn 絕tuyệt 復phục 甦tô中trung 外ngoại 宗tông 族tộc來lai 者giả 無vô 數số皆giai 甚thậm 悲bi 痛thống聞văn 者giả 莫mạc 不bất 傷thương 心tâm見kiến 者giả 莫mạc 不bất 痛thống 哀ai父phụ 母mẫu 妻thê 息tức怨oán 咎cữu 天thiên 地địa謂vị 為vi 不bất 護hộ棺quan 殮liễm 衣y 被bị如như 法pháp 遣khiển 送tống還hoàn 家gia 啼đề 泣khấp不bất 能năng 自tự 止chỉ
Tiết trời mới vào xuân, đôi vợ chồng son dẫn nhau đến hậu viên. Trong vườn có một cây xoài cao lớn đang nở hoa rất đẹp. Cô vợ muốn hái hoa nhưng không có ai hái giùm. Anh chồng biết ý vợ nên liền leo lên cây hái hoa. Khi vừa hái được một đóa hoa, anh ta lại muốn hái thêm một đóa nữa. Cứ leo mãi như thế cho tới khi đến chỗ của cành cây nhỏ, bất chợt cành cây bị gãy, anh chồng rơi xuống đất và lập tức tử thương. Lúc ấy tất cả kẻ lớn người nhỏ trong nhà bôn ba chạy đến. Họ kêu trời than đất, khóc thương đến tắt thở rồi dần dần tỉnh lại. Thân quyến nội ngoại đến chia buồn và ai nấy ngậm ngùi đau xót. Còn những người đến xem, không ai là chẳng thương cảm. Cha mẹ và nàng dâu oán trời trách đất sao đã không che chở bảo hộ. Sau đó họ liệm xác và đưa đi mai táng đúng như tục lệ. Khi đã trở về nhà, họ lại khóc than đến chẳng thể tự kiềm chế bản thân.

於ư 是thị 世Thế 尊Tôn愍mẫn 傷thương 其kỳ 愚ngu往vãng 問vấn 訊tấn 之chi長trưởng 者giả 室thất 家gia 大đại 小tiểu見kiến 佛Phật 悲bi 感cảm作tác 禮lễ 具cụ 陳trần 辛tân 苦khổ
Bấy giờ Thế Tôn thương xót cho sự ngu muội của họ nên đến thăm hỏi. Khi thấy Phật, toàn thể kẻ lớn người nhỏ của gia đình trưởng giả bi cảm nghẹn ngào, đảnh lễ, và kể lại tường tận câu chuyện đau lòng.

佛Phật 語ngứ 長trưởng 者giả
Phật bảo trưởng giả:

止chỉ 息tức 聽thính 法Pháp萬vạn 物vật 無vô 常thường不bất 可khả 久cửu 保bảo生sanh 則tắc 有hữu 死tử罪tội 福phước 相tương 追truy此thử 兒nhi 三tam 處xứ為vi 其kỳ 哭khốc 泣khấp懊áo 惱não 斷đoạn 絕tuyệt亦diệc 復phục 難nan 勝thắng竟cánh 為vi 誰thùy 兒nhi何hà 者giả 為vi 親thân
"Ông hãy tạm nén cơn đau mà nghe Ta thuyết Pháp. Vạn vật vô thường và chẳng thể bảo hộ lâu dài. Có sanh ắt phải chết, và tội phước luôn theo sát. Cha mẹ của đứa con này hiện đang ở ba nơi đều ngậm ngùi khóc than và buồn bã khôn nguôi, nhưng cũng không thể làm nó sống lại. Cho cùng đứa con này là của ai? Ai là người thân của nó?"

於ư 是thị 世Thế 尊Tôn即tức 說thuyết 偈kệ 言ngôn
Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:

命mạng 如như 華hoa 菓quả 熟thục
常thường 恐khủng 會hội 零linh 落lạc
已dĩ 生sanh 皆giai 有hữu 苦khổ
孰thục 能năng 致trí 不bất 死tử

"Mạng như trái tự chín
Luôn sợ bị rụng xuống
Có sanh ắt phải chết
Ai nào thoát miễn đâu?

從tùng 初sơ 樂nhạo 愛ái 欲dục
可khả 婬dâm 入nhập 胞bào 影ảnh
受thọ 形hình 命mạng 如như 電điện
晝trú 夜dạ 流lưu 難nan 止chỉ

Từ xưa thích ân ái
Do ái thọ bào thai
Mạng sống như điện chớp
Ngày đêm trôi chẳng ngừng

是thị 身thân 為vi 死tử 物vật
精tinh 神thần 無vô 形hình 法pháp
假giả 令linh 死tử 復phục 生sanh
罪tội 福phước 不bất 敗bại 亡vong

Thân là vật của chết
Thần thức vô hình tướng
Giả như chết rồi sanh
Tội phước vẫn chẳng mất

終chung 始thỉ 非phi 一nhất 世thế
從tùng 愛ái 癡si 久cửu 長trường
自tự 作tác 受thọ 苦khổ 樂lạc
身thân 死tử 神thần 不bất 喪táng

Thỉ chung đâu một đời
Do si ái dài lâu
Tự mình thọ vui khổ
Thân chết thức chẳng diệt"

長trưởng 者giả 聞văn 偈kệ意ý 解giải 忘vong 憂ưu長trường 跪quỵ 白bạch 佛Phật
Khi trưởng giả nghe kệ, trong lòng tỏ ngộ và nỗi buồn vơi đi, rồi quỳ hai gối và bạch Phật rằng:

此thử 兒nhi 宿túc 命mạng作tác 何hà 罪tội 舋hấn盛thịnh 美mỹ 之chi 壽thọ而nhi 便tiện 中trung 夭yểu唯duy 願nguyện 解giải 說thuyết本bổn 所sở 行hành 罪tội
"[Bạch Thế Tôn!] Đứa con này đã tạo nghiệp tội gì ở đời trước, mà nay đang sống an vui lại bỗng nhiên bị chết yểu như thế? Kính mong Thế Tôn hãy nói về nghiệp tội thuở xưa của nó."

佛Phật 告cáo 長trưởng 者giả
Phật bảo trưởng giả:

乃nãi 往vãng 昔tích 時thời有hữu 一nhất 小tiểu 兒nhi持trì 弓cung 箭tiễn 入nhập神thần 樹thụ 中trung 戲hí邊biên 有hữu 三tam 人nhân亦diệc 在tại 中trung 看khán樹thụ 上thượng 有hữu 雀tước小tiểu 兒nhi 欲dục 射xạ
"Vào thuở xưa có một đứa bé cầm cung tên đến một cây thần để chơi, và ở cạnh nơi đó cũng có ba người. Bấy giờ ở trên cây có một con chim sẻ và đứa trẻ chuẩn bị bắn nó.

三tam 人nhân 勸khuyến 言ngôn
Khi ấy ba người kia cổ vũ rằng:

若nhược 能năng 中trúng 雀tước 者giả世thế 稱xưng 健kiện 兒nhi
"Nếu có thể bắn được con chim sẻ thì mới gọi là tài giỏi."

小tiểu 兒nhi 意ý 美mỹ引dẫn 弓cung 射xạ 之chi中trúng 雀tước 即tức 死tử 墮đọa 地địa三tam 人nhân 共cộng 笑tiếu助trợ 之chi 歡hoan 喜hỷ而nhi 各các 自tự 去khứ
Đứa trẻ khoái ý giương cung bắn. Chim sẻ trúng tên liền rơi xuống đất chết ngay. Lúc đó ba người kia đều vui cười ủng hộ, rồi bỏ đi ra về.

經kinh 歷lịch 生sanh 死tử無vô 數số 劫kiếp 中trung所sở 在tại 相tương 遭tao共cộng 會hội 受thọ 罪tội其kỳ 三tam 人nhân 者giả一nhất 人nhân 有hữu 福phước今kim 在tại 天thiên 上thượng一nhất 人nhân 生sanh 海hải 中trung為vi 化hóa 生sanh 龍long 王vương一nhất 人nhân 今kim 日nhật長trưởng 者giả 身thân 是thị此thử 小tiểu 兒nhi 者giả前tiền 生sanh 天thiên 上thượng為vi 天thiên 作tác 子tử命mạng 終chung 來lai 下hạ為vi 長trưởng 者giả 作tác 子tử墮đọa 樹thụ 命mạng 絕tuyệt即tức 生sanh 海hải 中trung為vi 化hóa 生sanh 龍long 王vương 作tác 子tử即tức 以dĩ 生sanh 日nhật化hóa 生sanh 金kim 翅sí 鳥điểu 王vương取thủ 而nhi 食thực 之chi
Trải qua vô số kiếp, ba người họ thường tao ngộ quả báo giống nhau. Một người có phước, nay hiện ở trên trời. Một người hóa sanh làm long vương ở trong biển. Còn một người nữa, hiện tại chính là trưởng giả ông đây. Ở đời trước, đứa trẻ này sanh làm con của vị trời kia. Sau khi mạng chung, nó sanh xuống nhân gian làm con của trưởng giả. Sau khi rớt cây té chết, nó liền hóa sanh làm con của vua rồng ở trong biển. Vào ngày sanh ra, nó bị một con kim sí điểu chúa sanh ra từ biến hóa bắt lấy ăn thịt.

今kim 日nhật 三tam 處xứ懊áo 惱não 涕thế 哭khốc寧ninh 可khả 言ngôn 也dã以dĩ 其kỳ 前tiền 世thế助trợ 其kỳ 喜hỷ 故cố此thử 三tam 人nhân 者giả報báo 以dĩ 涕thế 哭khốc
Hiện giờ ở ba nơi đều buồn bã khóc lóc. Thật xót thương chẳng thể nói thành lời! Do ở đời trước thấy kẻ khác giết hại mà vui mừng theo, nên ba người họ nay phải gào khóc của báo ứng."

於ư 是thị 世Thế 尊Tôn即tức 說thuyết 偈kệ 言ngôn
Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:

識thức 神thần 造tạo 三tam 界giới
善thiện 不bất 善thiện 五ngũ 處xứ
陰âm 行hành 而nhi 默mặc 至chí
所sở 往vãng 如như 響hưởng 應ứng

"Thần thức tạo ba cõi
Lành dữ ở năm đường
Âm thầm lặng lẽ tới
Nơi đến như âm vang

色sắc 欲dục 不bất 色sắc 有hữu
一nhất 切thiết 因nhân 宿túc 行hành
如như 種chủng 隨tùy 本bổn 像tượng
自tự 然nhiên 報báo 如như 影ảnh

Cõi dục, sắc, vô sắc
Đều do nhân đời trước
Như bóng hiện theo hình
Báo ứng tự nhiên đến"

佛Phật 說thuyết 偈kệ 已dĩ欲dục 使sử 長trưởng 者giả 意ý 解giải即tức 以dĩ 道Đạo 力lực視thị 其kỳ 宿túc 命mạng皆giai 見kiến 天thiên 上thượng龍long 中trung 之chi 事sự
Khi nói kệ xong, Đức Phật vì muốn khiến tâm ý của trưởng giả liễu giải nên liền dùng Đạo lực chỉ cho thấy chuyện đời trước của ông, và cũng như việc mới xảy ra của đứa bé này ở trên trời và long cung.

長trưởng 者giả 意ý 解giải欣hân 然nhiên 即tức 起khởi長trường 跪quỵ 叉xoa 手thủ白bạch 佛Phật 言ngôn
Khi ấy trong lòng của trưởng giả vui mừng tỏ ngộ, liền đứng dậy, hai gối quỳ, chắp tay và thưa với Phật rằng:

願nguyện 及cập 大đại 小tiểu為vi 佛Phật 弟đệ 子tử奉phụng 受thọ 五Ngũ 戒Giới為vi 優Ưu 婆Bà 塞Tắc
"[Thưa Thế Tôn!] Nay con cùng mọi người trong gia tộc muốn làm đệ tử của Phật, thọ trì Năm Giới, và xin làm Thanh Tín Sĩ."

佛Phật 即tức 授thọ 戒giới重trùng 為vi 說thuyết 法Pháp無vô 常thường 之chi 義nghĩa大đại 小tiểu 歡hoan 欣hân皆giai 得đắc 須Tu 陀Đà 洹Hoàn 道Đạo
Đức Phật liền truyền thọ Năm Giới, rồi lại thuyết Pháp về ý nghĩa của vô thường thêm một lần nữa. Khi ấy mọi người hân hoan và đều đắc Quả Dự Lưu.

道Đạo 利Lợi 品Phẩm 第đệ 三tam 十thập 八bát
Phẩm 38: Đạo Lợi


昔tích 有hữu 國quốc 王vương治trị 行hành 正Chánh 法Pháp民dân 慕mộ 其kỳ 化hóa無vô 有hữu 太thái 子tử以dĩ 為vi 愁sầu 憂ưu
Thuở xưa có một vị quốc vương dùng Chánh Pháp trị nước và được nhân dân kính ngưỡng. Tuy nhiên ngài không có con nối ngôi nên rất buồn bã.

佛Phật 來lai 入nhập 國quốc便tiện 出xuất 覲cận 尊Tôn聽thính 經Kinh 歡hoan 欣hân即tức 受thọ 五Ngũ 戒Giới一nhất 心tâm 奉phụng 敬kính唯duy 願nguyện 有hữu 子tử晝trú 夜dạ 精tinh 進tấn三tam 時thời 不bất 懈giải
Bấy giờ Đức Phật đến nước đó giáo hóa. Nhà vua liền xuất cung để thân cận Thế Tôn. Sau khi nghe Pháp, nhà vua rất vui mừng, liền xin thọ Năm Giới, nhất tâm phụng kính Phật và chỉ hy vọng sanh một thái tử. Ngày đêm ba thời, nhà vua tinh tấn hành Đạo không biếng lười.

有hữu 一nhất 給cấp 使sử其kỳ 年niên 十thập 一nhất常thường 為vì 王vương 使sử忠trung 信tín 奉phụng 法Pháp不bất 失thất 威uy 儀nghi謙khiêm 卑ty 忍nhẫn 辱nhục 精tinh 進tấn一nhất 心tâm 學học 誦tụng 經Kinh 偈kệ知tri 時thời 先tiên 起khởi已dĩ 辦biện 香hương 火hỏa數sổ 年niên 之chi 中trung精tinh 進tấn 如như 是thị不bất 以dĩ 為vi 勞lao
Khi ấy nhà vua có một tiểu đồng luôn theo hầu hạ, khoảng 11 tuổi. Cậu bé tận trung với vua, biết phép tắc lễ nghi, khiêm tốn, an nhẫn, tinh tấn, và tín tâm phụng trì Phật Pháp. Mỗi buổi sáng thức dậy, cậu bé thắp hương và nhất tâm tinh tấn học tụng Kinh kệ. Trải qua nhiều năm tinh tấn như thế mà chẳng hề than khổ nhọc.

卒thốt 得đắc 重trọng 病bệnh遂toại 致trí 無vô 常thường其kỳ 神thần 來lai 還hoàn為vi 王vương 作tác 子tử乳nhũ 餔bô 長trưởng 大đại至chí 年niên 十thập 五ngũ立lập 為vi 太thái 子tử父phụ 王vương 命mạng 終chung襲tập 代đại 為vi 王vương憍kiêu 慢mạn 自tự 恣tứ婬dâm 泆dật 欲dục 樂lạc晝trú 夜dạ 躭đam 荒hoang不bất 理lý 國quốc 事sự臣thần 僚liêu 廢phế 朝triêu民dân 被bị 其kỳ 患hoạn
Một hôm cậu bé bỗng hốt nhiên lâm trọng bệnh và liền mạng chung. Sau đó thần thức của cậu ta trở lại sanh làm con của nhà vua. Tiểu vương tử được chăm lo cho bú và dần dần khôn lớn. Đến năm 15 tuổi thì được vua cha lập làm thái tử. Sau khi phụ vương băng hà, thái tử được tôn lên làm vua. Thế nhưng bổn tánh của tân vương kiêu ngạo tự đại, hoang dâm vô đạo, ngày đêm chỉ thích vui chơi, chẳng màng quốc sự, và bỏ bê triều chính nên khiến dân chúng lầm than.

佛Phật 知tri 其kỳ 行hành不bất 會hội 本bổn 識thức將tương 諸chư 弟đệ 子tử往vãng 到đáo 其kỳ 國quốc王vương 聞văn 佛Phật 來lai如như 先tiên 王vương 法pháp大đại 眾chúng 奉phụng 迎nghênh稽khể 首thủ 于vu 地địa卻khước 坐tọa 王vương 位vị
Đức Phật biết rõ sự tu hành của vị vua trẻ tuổi này, nhưng còn ngài thì chẳng biết chuyện đời trước của mình. Do đó Thế Tôn dẫn theo các đệ tử đi đến nước kia. Khi hay tin Phật đang đến, nhà vua cũng y như thông lệ của tiên vương và cùng đoàn tùy tùng xuất cung nghênh tiếp. Nhà vua cúi đầu đảnh lễ sát đất và ngồi qua một bên.

佛Phật 告cáo 王vương 曰viết
Bấy giờ Phật hỏi nhà vua rằng:

國quốc 土thổ 人nhân 民dân群quần 僚liêu 百bách 官quan悉tất 自tự 如như 常thường 不phủ
"Vương quốc, nhân dân, và quần thần bách quan đều bình an chứ?"

王vương 曰viết
Nhà vua thưa rằng:

為vi 人nhân 年niên 幼ấu未vị 能năng 綏tuy 化hóa皆giai 蒙mông 聖thánh 恩ân國quốc 土thổ 無vô 他tha
"[Thưa Thế Tôn!] Con là một vị vua trẻ tuổi nên chưa có thể cai quản triều chính. May nhờ hồng ân của Phật nên đất nước vẫn ổn."

佛Phật 告cáo 王vương 曰viết
Phật hỏi nhà vua rằng:

王vương 今kim 自tự 知tri本bổn 所sở 從tùng 來lai作tác 何hà 功công 德đức得đắc 此thử 王vương 位vị
"Nay đại vương có biết mình từ đâu đến và đã làm phước đức gì mà được ngôi vua chăng?"

王vương 曰viết
Nhà vua thưa rằng:

不bất 審thẩm頑ngoan 愚ngu 不bất 達đạt不bất 知tri 先tiên 世thế所sở 從tùng 來lai 也dã
"Dạ không, thưa Thế Tôn! Con ngu muội vô tri và không biết đời trước từ đâu đến."

佛Phật 告cáo 大đại 王vương
Phật bảo đại vương:

本bổn 以dĩ 五ngũ 事sự得đắc 為vi 國quốc 王vương何hà 等đẳng 為vi 五ngũ
"Đại vương vốn đã làm năm việc nên mới được làm vua. Những gì là năm?

一nhất 者giả布bố 施thí 得đắc 為vi 國quốc 王vương萬vạn 民dân 奉phụng 獻hiến宮cung 觀quán 殿điện 堂đường資tư 財tài 無vô 極cực
1. Do bố thí nên mới được làm vua, được muôn dân phụng hiến cung điện lầu các và có tài bảo vô số.

二nhị 者giả興hưng 立lập 寺tự 廟miếu供cúng 養dường 三Tam 尊Tôn床sàng 㯓tháp 幃vi 帳trướng以dĩ 是thị 為vi 王vương在tại 於ư 正chánh 殿điện御ngự 座tòa 理lý 國quốc
2. Do xây dựng tự viện, cúng dường giường nệm với tràng phan cho Tam Bảo, nên mới được làm vua và ngồi ở chánh điện để xử lý quốc sự.

三tam 者giả親thân 身thân 禮lễ 敬kính 三Tam 尊Tôn及cập 諸chư 長trưởng 德đức以dĩ 是thị 為vi 王vương一nhất 切thiết 萬vạn 民dân莫mạc 不bất 為vi 之chi 作tác 禮lễ
3. Do tôn kính Tam Bảo cùng thân cận các bậc trưởng lão đức hạnh, nên mới được làm vua và được tất cả muôn dân, không ai là chẳng lễ kính.

四tứ 者giả忍nhẫn 辱nhục 身thân 三tam 口khẩu 四tứ及cập 意ý 無vô 惡ác以dĩ 是thị 為vi 王vương一nhất 切thiết 見kiến 者giả莫mạc 不bất 歡hoan 欣hân
4. Do gìn giữ ba nghiệp của thân, bốn nghiệp của lời nói và trong lòng chẳng khởi điều ác, nên mới được làm vua--khi mọi người nhìn thấy, không ai là chẳng hân hoan.

五ngũ 者giả學học 問vấn 常thường 求cầu 智trí 慧tuệ以dĩ 是thị 為vi 王vương決quyết 斷đoán 國quốc 事sự莫mạc 不bất 奉phụng 用dụng
5. Do siêng học vấn để tăng trưởng trí tuệ nên mới được làm vua, có thể xử lý quốc sự một cách chính xác và không ai là chẳng khâm phục.

行hành 此thử 五ngũ 事sự世thế 世thế 為vi 王vương
Phàm ai tu hành năm việc này thì đời đời sẽ được làm vua."

於ư 是thị 世Thế 尊Tôn以dĩ 偈kệ 頌tụng 曰viết
Lúc bấy giờ Thế Tôn nói kệ rằng:

人nhân 知tri 奉phụng 其kỳ 上thượng
君quân 父phụ 師sư 道Đạo 士sĩ
信tín 戒giới 施thí 聞văn 慧tuệ
終chung 吉cát 所sở 生sanh 安an

"Ai biết phụng bậc trên
Đạo Nhân, vua, cha, thầy
Tín, giới, thí, văn, tuệ
Trọn đời mãi bình an

宿túc 命mạng 有hữu 福phước 慶khánh
生sanh 世thế 為vi 人nhân 尊tôn
以dĩ 道Đạo 安an 天thiên 下hạ
奉phụng 法Pháp 莫mạc 不bất 從tùng

Đời trước tu phước đức
Khi sanh đã tôn quý
Lấy Đạo an thiên hạ
Trì Pháp người kính theo

王vương 為vi 臣thần 民dân 主chủ
常thường 以dĩ 慈từ 愛ái 下hạ
身thân 率suất 以dĩ 法Pháp 戒giới
示thị 之chi 以dĩ 休hưu 咎cữu

Vua là chủ muôn dân
Luôn ban lòng từ ái
Đích thân trì Kinh giới
Dạy bảo điều đúng sai

處xử 安an 不bất 忘vong 危nguy
慮lự 明minh 福phước 轉chuyển 厚hậu
福phước 德đức 之chi 反phản 報báo
不bất 問vấn 尊tôn 以dĩ 卑ty

Khi an chẳng quên nguy
Lo xa phước chuyển tăng
Báo ứng của phước đức
Chẳng kể sang với hèn"

佛Phật 告cáo 王vương 曰viết
Phật bảo nhà vua:

王vương 前tiền 世thế 時thời為vi 大đại 王vương 給cấp 使sử奉phụng 佛Phật 以dĩ 信tín奉phụng 法Pháp 以dĩ 淨tịnh奉phụng 僧Tăng 以dĩ 敬kính奉phụng 親thân 以dĩ 孝hiếu奉phụng 君quân 以dĩ 忠trung常thường 行hành 一nhất 心tâm精tinh 進tấn 布bố 施thí勞lao 身thân 苦khổ 體thể初sơ 不bất 懈giải 倦quyện是thị 福phước 追truy 身thân得đắc 為vi 王vương 子tử補bổ 王vương 之chi 榮vinh
"Ở đời trước, đại vương là một tiểu đồng theo hầu hạ cho tiên vương. Cậu bé rất tín tâm phụng Phật, thanh tịnh phụng Pháp, thành kính phụng Tăng, hiếu thuận song thân, và tận trung với vua. Cậu bé luôn tu hành tinh tấn, siêng làm bố thí, và dù thân tâm chịu khổ nhọc cũng chẳng lười biếng. Do phước báo ứng hiện nên được làm vương tử và nối ngôi vua tôn quý.

今kim 者giả 富phú 貴quý而nhi 反phản 懈giải 怠đãi夫phù 為vi 國quốc 王vương當đương 行hành 五ngũ 事sự
Thế nhưng nay đại vương đã có được phú quý vinh hoa thì lại lười biếng. Phàm là chủ của một nước thì hãy thực hành năm việc.

何hà 謂vị 為vi 五ngũ 事sự
Những gì là năm?

一nhất 者giả領lãnh 理lý 萬vạn 民dân無vô 有hữu 枉uổng 濫lạm二nhị 者giả養dưỡng 育dục 將tướng 士sĩ隨tùy 時thời 稟bẩm 與dữ三tam 者giả念niệm 修tu 本bổn 業nghiệp福phước 德đức 無vô 絕tuyệt四tứ 者giả當đương 信tín 忠trung 臣thần正chánh 直trực 之chi 諫gián無vô 受thọ 讒sàm 言ngôn以dĩ 傷thương 正chánh 直trực五ngũ 者giả節tiết 欲dục 貪tham 樂lạc心tâm 不bất 放phóng 逸dật
1. Thống lãnh muôn dân và không lạm dụng hình phạt.
2. Nuôi dưỡng tướng sĩ và tùy thời ban thưởng.
3. Nhớ tu việc lành thì phước đức sẽ không dứt mất.
4. Tín nhiệm trung thần, tiếp nhận lời khuyên can chánh trực và không nghe lời sàm tấu.
5. Tiết chế dục lạc và tâm chẳng buông lung.

行hành 此thử 五ngũ 事sự名danh 聞văn 四tứ 海hải福phước 祿lộc 自tự 來lai捨xả 此thử 五ngũ 事sự眾chúng 綱cương 不bất 舉cử民dân 困khốn 則tắc 思tư 亂loạn士sĩ 勞lao 則tắc 勢thế不bất 舉cử 無vô 福phước鬼quỷ 神thần 不bất 助trợ自tự 用dụng 失thất 大đại 理lý忠trung 臣thần 不bất 敢cảm 諫gián心tâm 逸dật 國quốc 不bất 理lý 臣thần𦾨nghiệt 民dân 則tắc 怨oán若nhược 如như 是thị 者giả身thân 失thất 令linh 名danh後hậu 則tắc 無vô 福phước
Nếu quốc vương nào thực hành năm việc này thì tiếng thơm vang khắp bốn biển và phước lộc tự nhiên đến. Còn như lìa bỏ năm việc này, kinh tế sẽ chẳng phát triển, nhân dân khốn khổ sẽ sanh bạo loạn, sĩ phu lao nhọc sẽ làm quốc gia suy yếu, và do chẳng có phước đức nên quỷ thần không trợ giúp. Họ tự đánh mất điều lợi ích to lớn, trung thần chẳng dám khuyên can, tâm buông lung phế bỏ việc nước và khiến nhân dân than oán. Nếu ai như thế thì hiện đời mang tiếng xấu và sau khi chết sẽ không có phước báo.

於ư 是thị 世Thế 尊Tôn重trùng 說thuyết 偈kệ 言ngôn
Lúc bấy giờ Thế lại nói kệ rằng:

夫phù 為vi 世thế 間gian 將tướng
修tu 正chánh 不bất 阿a 枉uổng
調điều 心tâm 勝thắng 諸chư 惡ác
如như 是thị 為vi 法Pháp 王vương

"Chúa lãnh của thế gian
Tu thiện chẳng xảo ngụy
Điều tâm thắng tà ác
Như thế là minh quân

見kiến 正chánh 能năng 施thí 惠huệ
仁nhân 愛ái 好hiếu 利lợi 人nhân
既ký 利lợi 以dĩ 平bình 均quân
如như 是thị 眾chúng 附phụ 親thân

Chánh kiến khéo thí huệ
Nhân ái khéo lợi người
Lợi ích chia đồng đều
Như thế người cậy trông"

佛Phật 說thuyết 偈kệ 已dĩ是thị 時thời 王vương 大đại 歡hoan 喜hỷ起khởi 住trụ 佛Phật 前tiền五ngũ 體thể 投đầu 地địa懺sám 悔hối 謝tạ 佛Phật即tức 受thọ 五Ngũ 戒Giới佛Phật 重trùng 說thuyết 法Pháp得đắc 須Tu 陀Đà 洹Hoàn 道Đạo
Khi Phật nói kệ xong, nhà vua vô cùng hoan hỷ, rồi đứng dậy đi đến trước Phật, cúi đầu đảnh lễ sát đất, sám hối tạ ơn Phật, và xin thọ Năm Giới. Bấy giờ Đức Phật thuyết Pháp thêm một lần nữa và nhà vua đắc Quả Dự Lưu.




昔tích 佛Phật 在tại 舍Xá 衛Vệ 國Quốc祇Kỳ 樹Thụ 精Tinh 舍Xá為vì 諸chư 天thiên 人nhân國quốc 王vương 大đại 臣thần四tứ 輩bối 弟đệ 子tử說thuyết 無vô 上thượng 大đại 法Pháp
Thuở xưa Đức Phật ở tại Tinh xá Kỳ Viên gần thành Phong Đức để thuyết vô lượng đại Pháp cho hàng trời người, quốc vương, đại thần, và bốn chúng đệ tử.

時thời 舍Xá 衛Vệ 國Quốc南nam 有hữu 深thâm 山sơn其kỳ 中trung 常thường 出xuất 野dã 象tượng象tượng 有hữu 三tam 色sắc白bạch 青thanh 黑hắc 者giả國quốc 王vương 欲dục 得đắc好hảo 名danh 鬪đấu 大đại 象tượng輒triếp 遣khiển 人nhân 往vãng捕bộ 取thủ 將tương 來lai付phó 調điều 象tượng 師sư三tam 年niên 之chi 中trung便tiện 可khả 乘thừa 騎kỵ亦diệc 可khả 令linh 鬪đấu
Về hướng nam của thành Phong Đức vào thời ấy, có một khu rừng sâu và trong đó thường hay có voi hoang ra vào. Trong đàn voi có con màu trắng, xanh hoặc đen. Khi ấy nhà vua vì muốn có được những con voi lớn uy mãnh để dùng chiến đấu, nên liền sai người đến đó bắt chúng về, rồi giao cho những người huấn luyện voi. Trong vòng ba năm được huấn luyện, chúng có thể dùng để cưỡi và cũng có thể đưa đi chiến đấu.

時thời 有hữu 一nhất 神thần 象tượng龍long 之chi 所sở 生sanh身thân 白bạch 如như 雪tuyết尾vĩ 赤xích 如như 丹đan兩lưỡng 牙nha 如như 金kim 色sắc
Đương thời có một con voi thần được sanh ra từ loài rồng. Thân voi trắng như tuyết, đuôi có màu đỏ, và hai ngà màu vàng.

獵liệp 師sư 見kiến 此thử非phi 常thường 好hảo 象tượng還hoàn 白bạch 國quốc 王vương
Khi những thợ săn thấy nó, họ biết là một con voi đặc biệt phi thường nên trở về bẩm cáo quốc vương:

有hữu 此thử 大đại 象tượng其kỳ 形hình 如như 是thị宜nghi 大đại 王vương 乘thừa
"[Tâu đại vương!] Có một con voi với hình dáng như thế, thật xứng đáng để cho đại vương cưỡi."

王vương 即tức 募mộ 捕bộ 象tượng 師sư三tam 十thập 餘dư 人nhân遣khiển 令lệnh 捕bộ 此thử 象tượng人nhân 眾chúng 往vãng 到đáo 象tượng 所sở張trương 羂quyến 欲dục 捕bộ 象tượng而nhi 此thử 神thần 象tượng知tri 諸chư 人nhân 意ý即tức 便tiện 來lai 前tiền而nhi 墮đọa 羂quyến 中trung眾chúng 人nhân 皆giai 來lai而nhi 欲dục 捕bộ 之chi象tượng 便tiện 瞋sân 恚khuể逆nghịch 蹸lận 跳khiêu 之chi近cận 者giả 即tức 死tử遠viễn 者giả 得đắc 走tẩu象tượng 逐trục 不bất 置trí
Nhà vua lập tức chiêu mộ hơn 30 tượng sư và sai đi bắt con voi này. Và thế là đoàn người bắt voi đi đến chỗ ở của voi, rồi giăng lưới muốn bắt nó. Tuy nhiên nó là một con voi thần nên đã sớm biết ý định của họ. Nó liền tự động đến trước và cố ý sa lưới. Lúc ấy mọi người đều hăm hở đến bắt nó. Voi liền phẫn nộ và nhảy lên giẫm đạp họ. Kẻ nào ở gần thì bị nó đạp chết. Còn những kẻ ở xa thì bỏ chạy và bị voi truy đuổi chẳng tha.

時thời 山sơn 脇hiếp有hữu 諸chư 年niên 少thiếu 道Đạo 人Nhân多đa 力lực 勇dũng 健kiện山sơn 中trung 學học 道Đạo大đại 久cửu 未vị 得đắc 定định 意ý遙diêu 見kiến 此thử 象tượng追truy 逐trục 殺sát 人nhân道Đạo 人Nhân 憐lân 愍mẫn 人nhân 故cố自tự 恃thị 勇dũng 健kiện欲dục 往vãng 救cứu 之chi
Bấy giờ ở cạnh sườn núi có những vị Đạo Nhân trẻ tuổi, thân thể cường tráng và lực lưỡng. Họ vào rừng học Đạo đã lâu mà ý vẫn chưa định. Từ xa trông thấy con voi này đang truy giết người, các Đạo Nhân thương xót và cũng ỷ rằng mình mạnh khỏe nên muốn đến cứu họ.

佛Phật 已dĩ 遙diêu 見kiến恐khủng 此thử 比Bỉ 丘Khâu為vị 神thần 象tượng 所sở 殺sát佛Phật 即tức 到đáo 邊biên放phóng 大đại 光quang 明minh象tượng 見kiến 佛Phật 光quang怒nộ 止chỉ 恚khuể 解giải不bất 復phục 追truy 逐trục 殺sát 人nhân比Bỉ 丘Khâu 見kiến 佛Phật迎nghênh 為vi 作tác 禮lễ
Đức Phật đã từ xa trông thấy và sợ các vị Bhikṣu này sẽ bị voi thần giết chết, nên Ngài liền đến nơi đó và phóng đại quang minh. Khi thấy hào quang của Phật, voi thần nguôi đi cơn giận và không còn truy sát người nữa. Khi thấy Phật, các vị Bhikṣu nghênh tiếp và đảnh lễ.

佛Phật 為vì 比Bỉ 丘Khâu即tức 說thuyết 偈kệ 言ngôn
Phật liền nói kệ cho các vị Bhikṣu rằng:

勿vật 妄vọng 嬈nhiễu 神thần 象tượng
以dĩ 招chiêu 苦khổ 痛thống 患hoạn
惡ác 意ý 為vi 自tự 殺sát
終chung 不bất 至chí 善thiện 方phương

"Chớ quấy nhiễu voi thần
Mà chuốc phải khổ đau
Ác ý sẽ giết mình
Chết không đến nơi lành"

比Bỉ 丘Khâu 聞văn 偈kệ即tức 便tiện 稽khể 首thủ懺sám 悔hối 謝tạ 過quá內nội 自tự 篤đốc 責trách深thâm 惟duy 為vi 非phi即tức 於ư 佛Phật 前tiền逮đãi 得đắc 應Ưng 真Chân時thời 捕bộ 象tượng 人nhân 即tức 皆giai 還hoàn穌tô 走tẩu 者giả 尋tầm 還hoàn皆giai 得đắc 道Đạo 迹tích
Khi nghe kệ xong, các vị Bhikṣu liền cúi đầu, cầu xin sám hối, và trong lòng tự trách. Họ tư duy sâu xa về việc làm chẳng đúng của mình, và liền đắc Đạo Ưng Chân ở trước Phật. Còn những kẻ bắt voi bỏ chạy và may mắn sống sót, họ quay trở lại nghe Pháp và đều thấy dấu Đạo.




昔tích 佛Phật 在tại 羅La 閱Duyệt 祇Kỳ耆Kỳ 闍Xà 崛Quật 山Sơn 中trung時thời 國Quốc 王vương 瓶Bình 沙Sa有hữu 一nhất 大đại 臣thần犯phạm 事sự 免miễn 退thoái徙tỉ 著trước 南nam 山sơn 中trung去khứ 國quốc 千thiên 里lý 外ngoại由do 來lai 無vô 人nhân不bất 熟thục 五ngũ 穀cốc大đại 臣thần 到đáo 中trung泉tuyền 水thủy 流lưu 溢dật五ngũ 穀cốc 大đại 熟thục四tứ 方phương 諸chư 國quốc有hữu 飢cơ 寒hàn 者giả皆giai 來lai 至chí 此thử 山sơn 中trung數sổ 年niên 之chi 中trung便tiện 有hữu 三tam 四tứ 千thiên 家gia來lai 者giả 給cấp 與dữ 田điền 地địa令linh 得đắc 生sanh 活hoạt
Thuở xưa Đức Phật ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá. Đương thời vua Ảnh Thắng có một đại thần, nhân bởi phạm pháp nên bị miễn chức và lưu đày đến một vùng núi ở hướng nam, cách kinh đô khoảng 1.000 dặm. Do xưa nay chẳng có ai đến khai khẩn nên vùng đất này không có ngũ cốc mọc lên. Kể từ khi ông đại thần kia đến trong núi thì mới có nguồn nước suối chảy tràn đầy và ngũ cốc chín rộ. Từ đó, những người nghèo khổ của các nước xung quanh đều đến trong núi. Trải qua nhiều năm thì có khoảng 3.000 đến 4.000 gia đình cư trú. Những người mới đến đều được cấp cho ruộng đất để sinh sống.

其kỳ 中trung 三tam 老lão諸chư 長trưởng 宿túc 年niên 共cộng 議nghị
Bấy giờ ở đó có ba vị bô lão lớn tuổi cùng bàn luận rằng:

國quốc 之chi 無vô 君quân猶do 身thân 之chi 無vô 首thủ
"Đất nước không vua sẽ như cái xác không đầu."

相tương 將tương 至chí 大đại 臣thần 所sở舉cử 大đại 臣thần 為vi 國quốc 王vương
Và thế là họ cùng nhau đến chỗ của vị đại thần và tôn ông ta làm vua.

大đại 臣thần 答đáp 長trưởng 老lão 曰viết
Đại thần nói với các bô lão:

若nhược 以dĩ 我ngã 為vi 王vương 者giả當đương 如như 諸chư 國quốc 王vương 之chi 法pháp左tả 右hữu 大đại 臣thần文văn 武võ 將tướng 士sĩ上thượng 下hạ 朝triều 直trực發phát 女nữ 闐điền 宮cung租tô 稅thuế 穀cốc 帛bạch當đương 如như 民dân 法pháp
"Nếu tôn tôi lên làm vua thì phải đúng như phép tắc của các nước khác, phải có đại thần tả hữu và văn võ tướng sĩ, trên dưới hầu triều chỉnh tề, tuyển đồng nữ làm cung phi, và ban hành luật thu thuế cho mọi ngành nghề."

諸chư 國quốc 老lão 曰viết
Các bô lão nói rằng:

唯dụy 然nhiên 奉phụng 命mệnh一nhất 隨tùy 王vương 法pháp
"Xin phụng mệnh, tất cả sẽ như vương pháp."

即tức 立lập 為vi 王vương處xử 置trí 群quần 臣thần文văn 武võ 上thượng 下hạ發phát 調điều 人nhân 民dân築trúc 城thành 作tác 舍xá宮cung 殿điện 樓lâu 觀quan民dân 被bị 苦khổ 毒độc不bất 復phục 堪kham 諧hài皆giai 發phát 想tưởng 念niệm欲dục 謀mưu 圖đồ 王vương諸chư 姦gian 臣thần 輩bối將tương 王vương 出xuất 獵liệp去khứ 城thành 三tam 四tứ 十thập 里lý於ư 曠khoáng 野dã 澤trạch 中trung牽khiên 王vương 欲dục 殺sát
Họ liền lập ông ta lên làm vua, tuyển cử quần thần và văn võ bách quan, rồi điều động nhân dân để xây cung điện lầu các. Do đó nhân dân bị khốn khổ. Họ không thể chịu đựng nổi nữa và đều nghĩ muốn lật đổ nhà vua. Trong một dịp nọ, các gian thần dẫn nhà vua đến một cái đầm hoang dã, cách thành khoảng 30 đến 40 dặm để săn bắn, rồi bắt trói nhà vua và định giết.

王vương 問vấn 左tả 右hữu
Nhà vua hỏi quần thần tả hữu rằng:

何hà 緣duyên 殺sát 我ngã
"Sao lại muốn giết trẫm?"

答đáp 曰viết
Đáp rằng:

民dân 慕mộ 豐phong 樂lạc奉phụng 王vương 以dĩ 禮lễ民dân 困khốn 思tư 亂loạn破phá 家gia 圖đồ 國quốc
"Nhân dân cơm no áo ấm thì mới phụng kính quốc vương. Nhưng nay dân chúng lầm than, lòng dân nổi loạn và đều muốn tạo phản."

王vương 告cáo 之chi 言ngôn
Nhà vua nói rằng:

卿khanh 等đẳng 自tự 為vi非phi 我ngã 本bổn 造tạo枉uổng 殺sát 我ngã 者giả神thần 祇kỳ 知tri 之chi聽thính 我ngã 發phát 一nhất 願nguyện死tử 不bất 有hữu 恨hận
"Đây vốn là lỗi của các người chứ đâu phải lỗi của ta. Nếu giết oan cho ta thì thần linh sẽ hay biết. Xin hãy đợi cho ta phát một lời nguyện, dù có chết cũng không ân hận."

即tức 願nguyện 曰viết
Liền nguyện rằng:

我ngã 本bổn 開khai 荒hoang出xuất 穀cốc 養dưỡng 民dân來lai 者giả 皆giai 活hoạt富phú 樂lạc 無vô 極cực自tự 共cộng 舉cử 我ngã立lập 為vi 國quốc 王vương依y 案án 諸chư 國quốc自tự 共cộng 作tác 此thử今kim 反phản 殺sát 我ngã我ngã 實thật 無vô 惡ác於ư 此thử 人nhân 民dân若nhược 我ngã 死tử 者giả願nguyện 作tác 羅la 剎sát還hoàn 入nhập 故cố 身thân 中trung當đương 報báo 此thử 怨oán
"Xưa ta vốn đến đây để khai hoang, trồng ngũ cốc và nuôi dưỡng những kẻ bần khổ. Mọi người đến đây đều được ấm no và giàu sang thịnh vượng. Họ tự nguyện đồng tôn ta làm vua, rồi chiếu theo phép tắc của các nước khác mà cũng làm y như thế. Nay họ làm phản và muốn giết ta. Ta thật chẳng làm điều gì tàn ác đối với nhân dân. Nếu ta chết đi, ta nguyện sẽ làm quỷ bạo ác và nhập trở lại trong thân cũ để báo oán thù này!"

於ư 是thị 絞giảo 殺sát棄khí 屍thi 而nhi 去khứ三tam 日nhật 之chi 後hậu王vương 神thần 即tức 作tác 羅la 剎sát還hoàn 入nhập 故cố 身thân 中trung自tự 名danh 阿A 羅La 婆Bà即tức 起khởi 入nhập 宮cung絞giảo 殺sát 新tân 王vương并tinh 及cập 後hậu 宮cung 婇thể 女nữ左tả 右hữu 姦gian 臣thần即tức 皆giai 殺sát 之chi羅la 剎sát 瞋sân 恚khuể 出xuất 宮cung盡tận 欲dục 殺sát 人nhân
Sau đó nhà vua bị chúng gian thần siết cổ chết. Chúng bỏ tử thi ở đó rồi đi. Ba ngày sau, thần hồn của nhà vua nhập trở lại trong thân xác cũ và biến thành quỷ bạo ác, tự gọi là Khoáng Dã. Nó liền vào cung xiết chết tân vương và hậu cung thể nữ; chúng gian thần tả hữu đều bị giết sạch. Giữa cơn phẫn nộ, quỷ bạo ác còn muốn xuất cung và định giết hết dân chúng.

國quốc 中trung 三tam 老lão草thảo 索sách 自tự 縛phược來lai 向hướng 羅la 剎sát 自tự 首thủ
Bấy giờ ba vị quốc lão ở trong nước tự trói mình bằng dây cỏ, rồi tiến về hướng của quỷ bạo ác và tự thỉnh tội rằng:

此thử 是thị 姦gian 臣thần 所sở 為vi非phi 是thị 細tế 民dân所sở 可khả 能năng 知tri乞khất 匃cái 原nguyên 恕thứ願nguyện 還hoàn 治trị 國quốc
"Đây đều do bọn gian thần làm ra. Lê dân bách tánh hoàn toàn chẳng biết. Cúi mong ngài tha thứ và xin hãy trở về để xử lý quốc sự!"

曰viết
Đáp rằng:

我ngã 是thị 羅la 剎sát何hà 與dữ 人nhân 等đẳng共cộng 從tùng 事sự 也dã食thực 飲ẩm 當đương 得đắc 人nhân 肉nhục羅la 剎sát 急cấp 性tánh忿phẫn 不bất 思tư 難nan
"Ta là quỷ bạo ác. Sao có thể sinh hoạt chung với loài người chứ? Ta chỉ ăn thịt uống máu người. Hơn nữa bổn tánh của quỷ bạo ác nóng nảy và phẫn nộ khó lường."

三tam 老lão 曰viết
Ba vị quốc lão thưa rằng:

國quốc 是thị 王vương 許hứa故cố 當đương 如như 前tiền食thực 飲ẩm 所sở 須tu當đương 相tương 差sai 次thứ
"Đất nước này vốn thuộc của ngài, xin hãy trở về làm vua như trước. Còn về việc ăn uống thì cứ để chúng thần lo liệu."

國quốc 老lão 共cộng 出xuất宣tuyên 令lệnh 人nhân 民dân皆giai 共cộng 探thám 籌trù以dĩ 此thử 為vi 次thứ 家gia出xuất 一nhất 小tiểu 兒nhi生sanh 用dụng 作tác 食thực食thực 羅la 剎sát 王vương三tam 四tứ 千thiên 家gia正chánh 有hữu 一nhất 戶hộ為vi 佛Phật 弟đệ 子tử居cư 門môn 精tinh 進tấn五Ngũ 戒Giới 不bất 犯phạm隨tùy 民dân 探thám 籌trù得đắc 第đệ 一nhất 籌trù有hữu 一nhất 小tiểu 兒nhi當đương 先tiên 食thực 鬼quỷ 王vương賢hiền 者giả 大đại 小tiểu懊áo 惱não 啼đề 哭khốc遙diêu 向hướng 崛Quật 山Sơn為vì 佛Phật 作tác 禮lễ悔hối 過quá 自tự 責trách
Sau đó ba vị quốc lão cùng lui ra, rồi tuyên lệnh tất cả nhân dân đều phải bóc tăm và lần lượt mỗi nhà sẽ đưa ra một đứa bé để dâng lên cho vua quỷ bạo ác ăn. Trong khoảng 3.000 đến 4.000 gia đình, có một gia đình là đệ tử của Phật. Cả nhà tinh tấn hướng Đạo và nghiêm trì Năm Giới. Họ cũng theo mọi người bóc tăm và kết quả được thẻ đầu tiên. Bởi chỉ có một đứa con nhỏ mà nay sắp phải dâng lên cho vua quỷ ăn trước, nên tất cả kẻ lớn người nhỏ trong nhà đều buồn bã khóc lóc. Họ hướng trông về núi Thứu Phong, rồi từ xa đảnh lễ Phật, sám hối nghiệp chướng và tự trách bạt phước.

佛Phật 以dĩ 道Đạo 眼nhãn見kiến 其kỳ 辛tân 苦khổ便tiện 自tự 說thuyết 言ngôn
Với Đạo nhãn, Đức Phật thấy sự đau thương của họ và liền tự nói rằng:

因nhân 是thị 小tiểu 兒nhi當đương 度độ 無vô 數số 人nhân
"Do nhờ nhân duyên của đứa bé này mà vô số người sẽ được hóa độ."

便tiện 獨độc 飛phi 往vãng至chí 羅la 剎sát 門môn現hiện 變biến 光quang 相tướng照chiếu 其kỳ 宮cung 內nội羅la 剎sát 見kiến 光quang疑nghi 是thị 異dị 人nhân即tức 出xuất 見kiến 佛Phật便tiện 起khởi 毒độc 心tâm欲dục 前tiền 噏hấp 佛Phật光quang 刺thứ 其kỳ 目mục擔đảm 山sơn 吐thổ 火hỏa皆giai 化hóa 為vi 塵trần至chí 久cửu 疲bì 頓đốn然nhiên 後hậu 降hàng 化hóa請thỉnh 佛Phật 入nhập 坐tọa頭đầu 面diện 作tác 禮lễ佛Phật 為vi 說thuyết 經Kinh一nhất 心tâm 聽thính 法Pháp即tức 受thọ 五Ngũ 戒Giới為vi 優Ưu 婆Bà 塞Tắc
Đức Phật liền một mình bay đến trước cửa của quỷ bạo ác, biến hiện quang minh tướng hảo và chiếu ánh sáng vào trong cung. Khi thấy ánh sáng, quỷ bạo ác nghi đó là một người khác thường. Nó lập tức đi ra, và khi trông thấy Phật thì liền khởi lòng độc ác và muốn nuốt chửng Phật. Lúc ấy ánh sáng của Phật bắn vào mắt của vua quỷ, nên khiến cho hòn núi của nó vác đến và tài nghệ phun lửa đều hóa thành tro bụi. Chiến đấu đến một hồi lâu thì quỷ bạo ác kiệt quệ và sau đó mới chịu hàng phục. Vua quỷ thỉnh Phật vào trong ngồi, rồi cúi đầu đảnh lễ. Bấy giờ Đức Phật giảng Kinh. Vua quỷ nhất tâm nghe Pháp, rồi xin thọ Năm Giới và làm Thanh Tín Nam.

里lý 吏lại 催thôi 食thực奪đoạt 兒nhi 將tương 來lai室thất 家gia 嘷hào 哭khốc隨tùy 道đạo 而nhi 來lai觀quan 者giả 無vô 數số為vi 之chi 悲bi 哀ai吏lại 抱bão 兒nhi 擏cảnh食thực 著trước 羅la 剎sát 前tiền
Giữa lúc ấy, kẻ quan lại đến nhà đệ tử của Phật, rồi cưỡng đoạt đứa bé mang đi. Cả nhà gào khóc và chạy theo sau. Khi thấy tình cảnh này, vô số người đến xem đều xót thương. Sau đó kẻ quan lại bế đứa bé đặt ở trước quỷ bạo ác.

羅la 剎sát 即tức 持trì此thử 小tiểu 兒nhi 擎kình食thực 至chí 佛Phật 前tiền長trường 跪quỵ 白bạch 佛Phật 言ngôn
Quỷ bạo ác liền bế đứa bé đến trước Phật, rồi đưa cao lên, hai gối quỳ và thưa với Phật rằng:

國quốc 人nhân 相tương 差sai 次thứ以dĩ 小tiểu 兒nhi 為vi 食thực我ngã 今kim 受thọ 佛Phật 五Ngũ 戒Giới不bất 復phục 得đắc 食thực 此thử 小tiểu 兒nhi請thỉnh 以dĩ 小tiểu 兒nhi 布bố 施thí 佛Phật為vì 佛Phật 作tác 給cấp 使sử
"[Thưa Thế Tôn!] Nhân dân trong nước luân phiên mỗi ngày dâng lên một đứa bé để con ăn thịt. Nay con đã thọ Năm Giới của Phật và không thể ăn thịt đứa bé này được nữa. Con xin trao đứa bé này cho Phật để làm thị giả của Ngài."

佛Phật 為vi 受thọ 之chi即tức 說thuyết 咒chú 願nguyện羅la 剎sát 歡hoan 喜hỷ得đắc 須Tu 陀Đà 洹Hoàn 道Đạo
Đức Phật nhận lấy và liền chú nguyện. Lúc đó quỷ bạo ác hoan hỷ và đắc Quả Dự Lưu.

佛Phật 以dĩ 小tiểu 兒nhi 著trước 鉢bát 中trung擏cảnh 出xuất 宮cung 門môn還hoàn 其kỳ 父phụ 母mẫu而nhi 告cáo 之chi 曰viết
Sau đó Đức Phật bỏ đứa bé vào trong bát, đi ra khỏi cổng thành, rồi trao lại cho cha mẹ của nó và bảo rằng:

快khoái 養dưỡng 小tiểu 兒nhi勿vật 復phục 愁sầu 憂ưu
"Hãy nuôi dưỡng đứa bé thật tốt và chớ đau buồn nữa."

眾chúng 人nhân 見kiến 佛Phật莫mạc 不bất 驚kinh 愕ngạc怪quái 是thị 何hà 神thần此thử 兒nhi 何hà 福phước而nhi 獨độc 救cứu 之chi羅la 剎sát 所sở 食thực奪đoạt 還hoàn 父phụ 母mẫu
Khi mọi người thấy Phật, không ai là chẳng kinh ngạc. Họ kinh ngạc không biết là vị thần nào? Họ thắc mắc đứa bé này có phước đức gì mà khiến Đức Phật đích thân đến cứu khỏi từ miệng của quỷ bạo ác, rồi trao lại cho cha mẹ của nó?

於ư 是thị 世Thế 尊Tôn在tại 於ư 大đại 眾chúng 中trung央ương 而nhi 說thuyết 偈kệ 言ngôn
Bấy giờ Thế Tôn ở giữa đại chúng mà nói kệ rằng:

戒giới 德đức 可khả 恃thị 怙hộ
福phước 報báo 常thường 隨tùy 己kỷ
見kiến 法Pháp 為vi 人nhân 長trưởng
終chung 遠viễn 三tam 惡ác 道đạo

"Giới đức khéo bảo hộ
Phước báo luôn tùy thân
Thấy Pháp làm nhân sư
Vĩnh xa ba đường ác

戒giới 慎thận 除trừ 苦khổ 畏úy
福phước 德đức 三tam 界giới 尊tôn
鬼quỷ 龍long 邪tà 毒độc 害hại
不bất 犯phạm 有hữu 戒giới 人nhân

Giữ giới trừ hãi sợ
Phước đức ba cõi kính
Quỷ rồng tà độc hại
Không phạm ai trì giới"

佛Phật 說thuyết 偈kệ 已dĩ無vô 央ương 數số 人nhân見kiến 佛Phật 光quang 像tượng乃nãi 知tri 至chí 尊tôn三tam 界giới 無vô 比tỉ便tiện 皆giai 歸quy 化hóa為vi 佛Phật 弟đệ 子tử聞văn 偈kệ 歡hoan 欣hân皆giai 得đắc 道Đạo 迹tích
Khi nghe được kệ của Phật và lại thấy quang minh tướng hảo của Thế Tôn nên biết là bậc chí tôn, không một ai trong ba cõi có thể sánh bằng, vô số người liền đều quy y và xin làm đệ tử của Phật. Lòng họ hân hoan khi nghe kệ của Phật và đều thấy dấu Đạo.




昔tích 佛Phật 在tại 波Ba 羅La 奈Nại 國Quốc鹿Lộc 野Dã 場tràng 上thượng為vì 天thiên 人nhân 龍long 鬼quỷ國quốc 王vương 臣thần 民dân不bất 可khả 計kế 眾chúng而nhi 為vi 說thuyết 法Pháp
Thuở xưa Đức Phật thuyết Pháp cho hàng trời người, rồng, quỷ thần, quốc vương, quần thần, nhân dân, và vô số đại chúng ở vườn Nai gần thành Lộc Dã.

時thời 大đại 國quốc 王vương 太thái 子tử將tương 從tùng 小tiểu 國quốc 王vương 世thế 子tử五ngũ 百bách 餘dư 人nhân往vãng 到đáo 佛Phật 所sở為vì 佛Phật 作tác 禮lễ卻khước 坐tọa 一nhất 面diện 而nhi 聽thính 法Pháp
Bấy giờ có một thái tử của một nước lớn nọ, dẫn theo 500 vương tử của các nước nhỏ đi đến chỗ của Phật, rồi đảnh lễ Phật, và ngồi qua một bên để nghe Pháp.

諸chư 太thái 子tử 等đẳng即tức 白bạch 佛Phật 言ngôn
Sau đó các vương tử bạch Phật rằng:

佛Phật 道Đạo 清thanh 妙diệu玄huyền 遠viễn 難nan 及cập自tự 古cổ 以dĩ 來lai頗phả 有hữu 國quốc 王vương太thái 子tử 大đại 臣thần長trưởng 者giả 之chi 子tử捨xả 國quốc 吏lại 民dân恩ân 愛ái 榮vinh 樂lạc行hành 作tác 沙Sa 門Môn 者giả 不phủ
"[Bạch Thế Tôn!] Phật Đạo vi diệu thanh tịnh, cao viễn huyền thâm, và không gì sánh bằng. Từ xưa đến nay, có quốc vương, thái tử, đại thần, hoặc con của trưởng giả nào mà lìa bỏ địa vị quyền quý và ân ái vinh hoa để trở thành Đạo Nhân chăng?"

佛Phật 告cáo 諸chư 太thái 子tử
Phật bảo các vương tử:

世thế 間gian 國quốc 土thổ榮vinh 樂lạc 恩ân 愛ái如như 幻huyễn 如như 化hóa如như 夢mộng 如như 響hưởng卒thốt 來lai 卒thốt 去khứ不bất 可khả 常thường 保bảo又hựu 國quốc 王vương 太thái 子tử以dĩ 三tam 事sự 故cố不bất 能năng 得đắc 道Đạo
"Địa vị quyền quý và ân ái vinh hoa của thế gian thì như huyễn, như hóa, như mộng, như âm vang. Chợt đến chợt đi và chẳng thể bảo hộ lâu dài. Lại có quốc vương hoặc thái tử do vướng ba việc ác này mà chẳng thể đắc Đạo.

何hà 謂vị 三tam 事sự
Những gì là ba?

一nhất 者giả憍kiêu 恣tứ不bất 念niệm 學học 問vấn佛Phật 經Kinh 妙diệu 義nghĩa以dĩ 濟tế 神thần 本bổn
1. Kiêu mạn buông lung và chẳng nhớ học tập diệu nghĩa của Kinh Phật để trí tuệ tăng trưởng.

二nhị 者giả貪tham 取thủ不bất 念niệm 布bố 施thí下hạ 貧bần 困khốn 厄ách群quần 臣thần 將tướng 士sĩ所sở 有hữu 財tài 寶bảo不bất 與dữ 民dân 共cộng以dĩ 修tu 財tài 本bổn
2. Tham lam keo kiệt và không chịu bố thí kẻ nghèo cùng khốn khổ, tài bảo của quần thần và tướng sĩ chẳng phân hưởng với nhân dân.

三tam 者giả不bất 能năng 遠viễn 離ly 色sắc 欲dục愛ái 樂nhạo 之chi 事sự捨xả 棄khí 牢lao 獄ngục憂ưu 煩phiền 之chi 惱não行hành 作tác 沙Sa 門Môn滅diệt 眾chúng 苦khổ 難nạn
3. Chẳng thể rời xa sắc dục và những việc yêu thích, chẳng thể xả bỏ lao ngục của phiền não để trở thành Đạo Nhân và diệt trừ khổ ách.

以dĩ 修tu 身thân 本bổn是thị 以dĩ 菩Bồ 薩Tát所sở 生sanh 為vi 王vương除trừ 此thử 三tam 事sự自tự 致trí 得đắc 佛Phật
Sở dĩ Bồ-tát nguyện chuyển sanh làm vua là để tu hành, diệt trừ ba việc này, và tự chứng thành Phật.

又hựu 有hữu 三tam 事sự何hà 謂vị 為vi 三tam
Lại có ba việc lành. Những gì là ba?

一nhất 者giả少thiếu 壯tráng 學học 問vấn領lãnh 理lý 國quốc 土thổ率suất 化hóa 民dân 庶thứ使sử 行hành 十Thập 善Thiện
1. Thiếu niên học tập, thống lãnh đất nước, và giáo hóa nhân dân tu hành Mười Nghiệp Lành.

二nhị 者giả中trung 以dĩ 財tài 施thí貧bần 窮cùng 孤cô 寡quả群quần 臣thần 將tướng 士sĩ與dữ 民dân 同đồng 歡hoan
2. Luôn dùng tài vật bố thí kẻ bần cùng đơn côi, quần thần tướng sĩ và nhân dân cùng chung hưởng an vui.

三tam 者giả每mỗi 計kế 無vô 常thường命mạng 不bất 久cửu 留lưu宜nghi 當đương 出xuất 家gia行hành 作tác 沙Sa 門Môn斷đoạn 苦khổ 因nhân 緣duyên勿vật 更cánh 生sanh 死tử
3. Luôn nghĩ vô thường, tánh mạng khó bảo hộ lâu dài, và muốn xuất gia trở thành Đạo Nhân để đoạn trừ nhân duyên của khổ và không còn thọ sanh tử.

三tam 事sự 不bất 施thi獨độc 無vô 所sở 得đắc
Nếu chẳng thực hành ba việc này thì họ sẽ không được như sở nguyện."

於ư 是thị 世Thế 尊Tôn而nhi 自tự 陳trần 曰viết
Lúc bấy giờ Thế Tôn tự thuật rằng:

昔tích 我ngã 前tiền 世thế作tác 轉Chuyển 輪Luân 聖Thánh 王Vương名danh 曰viết 南Nam 王Vương 皇Hoàng 帝Đế七thất 寶bảo 導đạo 從tùng宮cung 觀quán 浴dục 池trì行hành 宮cung 戲hí 園viên及cập 群quần 臣thần 太thái 子tử夫phu 人nhân 婇thể 女nữ象tượng 馬mã 厨trù 宰tể各các 八bát 萬vạn 四tứ 千thiên有hữu 子tử 千thiên 人nhân勇dũng 猛mãnh 精tinh 銳duệ一nhất 人nhân 當đương 千thiên飛phi 行hành 虛hư 空không周chu 遊du 四tứ 方phương自tự 在tại 所sở 為vi無vô 當đương 前tiền 者giả其kỳ 壽thọ 八bát 萬vạn 四tứ 千thiên 歲tuế以dĩ 法Pháp 治trị 政chánh不bất 枉uổng 人nhân 民dân
"Vào thuở xưa ở đời trước, ta từng làm Chuyển Luân Thánh Vương, tên là Nam Vương Hoàng Đế, có bảy báu luôn uy trấn bên mình. Có cung điện ao tắm, viên lâm du hí, quần thần, quan ngự trù, phu nhân thể nữ, và voi ngựa, mỗi thứ có đến 84.000. Ngài lại có 1.000 con trai dũng mãnh tinh duệ. Sức mạnh của mỗi vương tử có thể địch cả 1.000 người, phi hành hư không, việc làm như ý và không ai dám đối nghịch. Họ sống đến 84.000 tuổi, đều dùng chánh Pháp trị nước và không làm nhân dân oán trách.

爾nhĩ 時thời 聖thánh 王vương欻hốt 自tự 念niệm 言ngôn
Một hôm vua Chuyển Luân bỗng nhiên tự nghĩ thầm:

人nhân 命mạng 短đoản 促xúc無vô 常thường 難nan 保bảo但đãn 當đương 作tác 福phước 以dĩ 求cầu 道Đạo 真chân念niệm 常thường 布bố 施thí世thế 間gian 人nhân 民dân所sở 有hữu 財tài 物vật與dữ 民dân 共cộng 之chi已dĩ 種chúng 福phước 德đức唯duy 當đương 出xuất 家gia行hành 作tác 沙Sa 門Môn斷đoạn 絕tuyệt 貪tham 欲dục乃nãi 得đắc 滅diệt 苦khổ
"Đời người ngắn ngủi, vô thường và khó bảo hộ. Thế nên ta nhất định phải tu tập phước đức và cầu Đạo chân thật. Ta sẽ luôn bố thí đến hết thảy nhân dân trong thế gian. Tất cả tài vật sẽ cùng dân phân hưởng. Sau khi đã trồng phước đức này, ta sẽ xuất gia để trở thành Đạo Nhân. Một khi đã đoạn tuyệt tham dục thì mới có thể diệt trừ khổ não."

王vương 即tức 勅sắc 梳sơ 頭đầu 人nhân
Nhà vua liền ra lệnh cho người thợ hớt tóc rằng:

若nhược 見kiến 頭đầu 髮phát 白bạch便tiện 當đương 啟khải 我ngã
'Nếu thấy có tóc bạc trên đầu thì phải liền báo cho trẫm biết.'

至chí 久cửu 數sổ 萬vạn 歲tuế梳sơ 頭đầu 人nhân 啟khải 言ngôn
Đến một thời gian dài khoảng vài chục ngàn năm sau, người thợ hớt tóc tâu rằng:

白bạch 髮phát 已dĩ 生sanh
'[Muôn tâu thánh vương!] Trên đầu ngài đã mọc tóc bạc.'

勅sắc 令lệnh 拔bạt 之chi舉cử 著trước 案án 上thượng
Nhà vua ra lệnh nhổ chúng và đặt ở trên bàn.

王vương 見kiến 白bạch 髮phát涕thế 泣khấp 命mạng 曰viết
Khi thấy những sợi tóc bạc, nhà vui rơi lệ và nói rằng:

第đệ 一nhất 使sứ 者giả忽hốt 然nhiên 復phục 至chí今kim 頭đầu 已dĩ 白bạch宜nghi 當đương 出xuất 家gia行hành 作tác 沙Sa 門Môn求cầu 自tự 然nhiên 道Đạo
"Sứ giả thứ nhất hốt nhiên đã đến. Nay đầu đã bạc, ta phải nên xuất gia làm Đạo Nhân và cầu Đạo tự nhiên."

擎kình 髮phát 掌chưởng 中trung自tự 說thuyết 偈kệ 言ngôn
Sau đó nhà vua đặt những sợi tóc bạc vào lòng bàn tay, rồi tự nói kệ rằng:

今kim 我ngã 上thượng 體thể 首thủ
白bạch 生sanh 為vi 被bị 盜đạo
已dĩ 有hữu 天thiên 使sứ 召triệu
時thời 正chánh 宜nghi 出xuất 家gia

"Đầu ta nay đã bạc
Dấu hiệu thời trẻ qua
Thiên sứ đến báo tin
Đến lúc phải xuất gia"

即tức 召triệu 群quần 臣thần立lập 太thái 子tử 為vi 王vương行hành 作tác 沙Sa 門Môn入nhập 山sơn 修tu 道Đạo畢tất 人nhân 之chi 壽thọ即tức 生sanh 第đệ 二nhị 天thiên 上thượng為vi 天Thiên 帝Đế 釋Thích 太thái 子tử
Nhà vua lập tức triệu tập quần thần và lập thái tử lên ngôi, rồi trở thành Đạo Nhân và vào núi tu Đạo. Khi thọ mạng ở nhân gian chấm dứt, ngài liền sanh làm thái tử của Năng Thiên Đế ở tầng trời thứ hai.

於ư 後hậu 領lãnh 理lý 天thiên 下hạ亦diệc 如như 大đại 王vương復phục 勅sắc 梳sơ 頭đầu 人nhân
Vị vua kế nhiệm cũng thống lãnh thiên hạ như tiên vương thuở trước và cũng bảo người thợ hớt tóc rằng:

若nhược 見kiến 白bạch 髮phát便tiện 當đương 啟khải 我ngã
'Nếu thấy có tóc bạc trên đầu thì phải liền báo cho trẫm biết.'

至chí 久cửu 復phục 啟khải
Đến một thời gian dài về sau, người thợ hớt tóc tâu rằng:

白bạch 髮phát 已dĩ 生sanh
'[Muôn tâu thánh vương!] Trên đầu ngài đã mọc tóc bạc.'

敕sắc 令lệnh 拔bạt 之chi擎kình 著trước 掌chưởng 中trung而nhi 說thuyết 偈kệ 言ngôn
Nhà vua ra lệnh nhổ những sợi tóc bạc, rồi đặt chúng vào lòng bàn tay và nói kệ rằng:

今kim 我ngã 上thượng 體thể 首thủ
白bạch 生sanh 為vi 被bị 盜đạo
已dĩ 有hữu 天thiên 使sứ 召triệu
時thời 正chánh 宜nghi 出xuất 家gia

"Đầu ta nay đã bạc
Dấu hiệu thời trẻ qua
Thiên sứ đến báo tin
Đến lúc phải xuất gia"

復phục 召triệu 群quần 臣thần立lập 太thái 子tử 為vi 王vương即tức 行hành 作tác 沙Sa 門Môn入nhập 山sơn 修tu 道Đạo畢tất 人nhân 之chi 壽thọ復phục 生sanh 天thiên 上thượng為vi 天Thiên 帝Đế 釋Thích前tiền 天Thiên 帝Đế 釋Thích畢tất 天thiên 之chi 壽thọ下hạ 生sanh 世thế 間gian為vi 聖thánh 王vương 作tác 太thái 子tử此thử 三tam 聖thánh 主chủ更cánh 為vi 父phụ 子tử上thượng 為vi 天thiên 帝đế下hạ 為vi 聖thánh 主chủ中trung 為vi 太thái 子tử各các 各các 三tam 十thập 六lục 反phản數sổ 千thiên 萬vạn 歲tuế終chung 而nhi 復phục 始thỉ行hành 此thử 三tam 事sự自tự 致trí 得đắc 佛Phật
Nhà vua cũng lập tức triệu tập quần thần và lập thái tử lên ngôi, rồi trở thành Đạo Nhân và vào núi tu Đạo. Khi thọ mạng ở nhân gian chấm dứt, ngài liền sanh lên trời làm Năng Thiên Đế. Còn vị thiên đế trước đây, khi thọ mạng ở thiên thượng chấm dứt, ngài sanh làm thái tử của vua Chuyển Luân. Ba vị ấy luân phiên làm cha con với nhau, hoặc sanh lên trời làm thiên đế, hoặc sanh xuống nhân gian làm vua Chuyển Luân, hoặc sanh làm thái tử của thiên đế hay thái tử của vua Chuyển Luân. Mỗi vị trải qua 36 lần như thế và thời gian dài đến khoảng vài ngàn vạn năm. Khi vừa kết thúc rồi lại bắt đầu nối tiếp thực hành ba việc lành ở trên và tự chứng thành Phật.

爾nhĩ 時thời 父phụ 者giả今kim 我ngã 身thân 是thị 也dã太thái 子tử 者giả舍Xá 利Lợi 弗Phất 是thị 也dã王vương 孫tôn 者giả阿A 難Nan 是thị 也dã更cánh 相tương 從tùng 生sanh展triển 轉chuyển 為vi 王vương以dĩ 化hóa 天thiên 下hạ是thị 以dĩ 特đặc 尊tôn三tam 界giới 無vô 比tỉ
Vua cha thuở đó nay chính là thân Ta. Thái tử chính là Bhikṣu Thu Lộ Tử. Cháu nội của vua chính là Thị giả Khánh Hỷ. Trải qua nhiều đời thọ sanh và triển chuyển làm vua Chuyển Luân, rồi dùng Chánh Pháp giáo hóa nhân dân trong thiên hạ. Việc này rất đặc biệt và tôn quý, khắp ba cõi không một ai có thể sánh bằng"

佛Phật 說thuyết 是thị 時thời國quốc 王vương 太thái 子tử并tinh 諸chư 太thái 子tử皆giai 大đại 歡hoan 喜hỷ受thọ 佛Phật 五Ngũ 戒Giới為vi 優Ưu 婆Bà 塞Tắc得đắc 須Tu 陀Đà 洹Hoàn 道Đạo
Khi Phật nói lời ấy xong, tất cả vương tử của các nước đều sanh tâm đại hoan hỷ. Họ thọ trì Năm Giới của Phật, xin làm Thanh Tín Sĩ, và đều đắc Quả Dự Lưu.

吉Cát 祥Tường 品Phẩm 第đệ 三tam 十thập 九cửu
Phẩm 39: Cát Tường


昔tích 佛Phật 在tại 羅La 閱Duyệt 祇Kỳ耆Kỳ 闍Xà 崛Quật 山Sơn 中trung為vì 天thiên 人nhân 龍long 鬼quỷ轉chuyển 三Tam 乘Thừa 法Pháp 輪luân
Thuở xưa Đức Phật ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá để chuyển Pháp luân của Ba Thừa cho hàng trời người, rồng và quỷ thần.

時thời 山sơn 南nam 恒Hằng 水thủy 岸ngạn 邊biên有hữu 尼ni 揵kiền 梵Phạm 志Chí先tiên 出xuất 耆kỳ 舊cựu博bác 達đạt 多đa 知tri德đức 向hướng 五ngũ 通thông明minh 識thức 古cổ 今kim所sở 養dưỡng 門môn 徒đồ有hữu 五ngũ 百bách 人nhân教giáo 化hóa 指chỉ 授thọ皆giai 悉tất 通thông 達đạt天thiên 文văn 地địa 理lý星tinh 宿tú 人nhân 情tình無vô 不bất 瞻chiêm 察sát觀quan 略lược 內nội 外ngoại吉cát 凶hung 禍họa 福phước豐phong 儉kiệm 出xuất 沒một皆giai 包bao 知tri 之chi梵Phạm 志Chí 弟đệ 子tử先tiên 佛Phật 所sở 行hành應ưng 當đương 得đắc 道Đạo
Đương thời ở bên bờ nước sông Hằng về hướng nam của núi Thứu Phong, có một Phạm Chí thuộc phái Ly Hệ, xuất thân từ gia tộc tôn quý lâu đời. Ông thông minh tài trí, thông hiểu những chuyện xưa nay, và đã chứng năm loại thần thông. Ông nuôi dưỡng và chỉ dạy 500 đệ tử. Họ đều thông đạt thiên văn địa lý, tinh tú, và nhân tình--tất cả đều xem xét rõ ràng. Họ lại đều biết mưu lược trong ngoài, những chuyện cát hung họa phước, và thời điểm tốt xấu xuất hiện hoặc tiêu mất. Những vị đệ tử này của Phạm Chí có nhân duyên tu hành ở nơi chư Phật vào đời trước và sắp sửa đắc Đạo.

欻hốt 自tự 相tương 將tương至chí 水thủy 岸ngạn 邊biên屏bính 坐tọa 論luận 語ngữ自tự 共cộng 相tương 問vấn
Một hôm họ đều đến bờ nước, cùng ngồi đàm luận và hỏi với nhau rằng:

世thế 間gian 諸chư 國quốc人nhân 民dân 所sở 行hành以dĩ 何hà 等đẳng 事sự為vi 世thế 吉cát 祥tường
"Những việc làm của nhân dân trong các nước trên thế gian, điều gì là cát tường?"

徒đồ 等đẳng 不bất 了liễu往vãng 到đáo 師sư 所sở為vi 師sư 作tác 禮lễ叉xoa 手thủ 白bạch 言ngôn
Tất cả đệ tử đều chẳng hiểu. Do đó họ đi đến chỗ của thầy, rồi đảnh lễ thầy và thưa rằng:

弟đệ 子tử 等đẳng 學học久cửu 所sở 學học 已dĩ 達đạt不bất 聞văn 諸chư 國quốc以dĩ 何hà 為vi 吉cát 祥tường
"Chúng con theo thầy học tập đã lâu và sở học đều đã thông đạt. Tuy nhiên chúng con chưa nghe qua điều gì là cát tường của nhân dân trong các nước trên thế gian?"

尼ni 揵kiền 告cáo 曰viết
Phạm Chí bảo rằng:

善thiện 哉tai 問vấn 也dã閻Diêm 浮Phù 利Lợi 地Địa有hữu 十thập 六lục 大đại 國quốc八bát 萬vạn 四tứ 千thiên 小tiểu 國quốc諸chư 國quốc 各các 有hữu 吉cát 祥tường或hoặc 金kim 或hoặc 銀ngân水thủy 精tinh 琉lưu 璃ly明minh 月nguyệt 神thần 珠châu象tượng 馬mã 車xa 輿dư玉ngọc 女nữ 珊san 瑚hô珂kha 貝bối 妓kỹ 樂nhạc鳳phượng 凰hoàng 孔khổng 雀tước或hoặc 以dĩ 日nhật 月nguyệt 星tinh 辰thần寶bảo 瓶bình 四tứ 華hoa梵Phạm 志Chí 道Đạo 士sĩ此thử 是thị 諸chư 國quốc之chi 所sở 好hiếu 喜hỷ吉cát 祥tường 瑞thụy 應ứng若nhược 當đương 見kiến 是thị稱xưng 善thiện 無vô 量lượng此thử 是thị 瑞thụy 應ứng國quốc 之chi 吉cát 祥tường
"Các con hỏi rất hay! Ở châu Thắng Kim có 16 nước lớn và 84.000 nước nhỏ. Mỗi nước đều có sự cát tường riêng. Như là vàng hay bạc, thủy tinh lưu ly, minh nguyệt thần châu, voi ngựa xe cộ, ngọc nữ san hô, kha bối kỹ nhạc, phượng hoàng khổng tước, nhật nguyệt tinh tú, bình báu, ngắm hoa, hoặc kính trọng Phạm Chí Đạo sĩ. Những việc ấy là sự yêu thích của nhân dân trong các nước và được xem là điềm lành cát tường. Nếu họ thấy những điều ấy, họ tán dương là việc lành vô lượng. Những điềm lành ấy là sự cát tường của nhân dân trong các nước vậy."

諸chư 弟đệ 子tử 曰viết
Các đệ tử thưa rằng:

寧ninh 可khả 更cánh 有hữu殊thù 特đặc 吉cát 祥tường於ư 身thân 有hữu 益ích終chung 生sanh 天thiên 上thượng
"[Thưa ân sư!] Ngoài những việc ấy, còn có sự cát tường đặc biệt nào mà có thể giúp người sau khi chết sanh lên trời chăng?"

尼ni 揵kiền 答đáp 曰viết
Phạm Chí đáp rằng:

先tiên 師sư 以dĩ 來lai未vị 有hữu 過quá 此thử書thư 籍tịch 不bất 載tái
"Về việc này thì thầy chưa từng nghe các bậc tiên sư nói đến và trong sách điển cũng không ghi chép."

諸chư 弟đệ 子tử 曰viết
Các đệ tử thưa rằng:

近cận 聞văn 釋Thích 種chủng出xuất 家gia 為vì 道Đạo端đoan 坐tọa 六lục 年niên降hàng 魔ma 得đắc 佛Phật三Tam 達Đạt 無vô 礙ngại試thí 共cộng 往vãng 問vấn所sở 知tri 博bác 採thải何hà 如như 大đại 師sư
"Gần đây chúng con nghe nói có một vị thuộc dòng tộc Năng Nhân đã xuất gia tu Đạo, khổ hành sáu năm, rồi hàng ma thành Đạo và có Ba Minh vô ngại. Chúng ta hãy cùng nhau thử đến hỏi để biết sự thông đạt của vị ấy như thế nào, có được không thưa sư phụ?"

師sư 徒đồ 弟đệ 子tử五ngũ 百bách 餘dư 人nhân經kinh 涉thiệp 山sơn 路lộ往vãng 到đáo 佛Phật 所sở為vì 佛Phật 作tác 禮lễ坐tọa 梵Phạm 志Chí 位vị
Và thế là thầy trò hơn 500 người cùng băng rừng vượt núi để đến chỗ của Phật, rồi đảnh lễ Phật và ngồi ở chỗ của Phạm Chí.

叉xoa 手thủ 長trường 跪quỵ白bạch 佛Phật 世Thế 尊Tôn 曰viết
Sau đó họ chắp tay, quỳ hai gối và bạch Đức Phật Thế Tôn rằng:

諸chư 國quốc 吉cát 祥tường所sở 好hảo 如như 此thử不bất 審thẩm 更cánh 有hữu勝thắng 是thị 者giả 不phủ
"[Bạch Thế Tôn!] Sự cát tường của nhân dân trong các nước có những việc như thế. Chẳng hay còn có sự cát tường nào hơn chăng?"

佛Phật 告cáo 梵Phạm 志Chí
Phật bảo Phạm Chí:

如như 卿khanh 所sở 論luận世thế 間gian 之chi 事sự順thuận 則tắc 吉cát 祥tường反phản 則tắc 凶hung 禍họa不bất 能năng 令linh 人nhân濟tế 神thần 度độ 苦khổ如như 我ngã 所sở 聞văn吉cát 祥tường 之chi 法Pháp行hành 者giả 得đắc 福phước永vĩnh 離ly 三tam 界giới自tự 致trí 泥Nê 洹Hoàn
"Những việc của thế gian mà ông nói, nếu thuận là cát tường, còn nghịch là tai họa. Chúng đều chẳng thể giúp người lìa khổ và độ thoát sanh tử. Còn về Pháp cát tường mà Ta biết, đó là những ai tu Đạo thì sẽ được phước, vĩnh viễn lìa khỏi ba cõi, và tự đạt đến tịch diệt."

於ư 是thị 世Thế 尊Tôn而nhi 作tác 頌tụng 曰viết
Lúc bấy giờ Thế Tôn nói kệ rằng:

佛Phật 尊tôn 過quá 諸chư 天thiên
如Như 來Lai 常thường 現hiện 義nghĩa
有hữu 梵Phạm 志Chí 道Đạo 士sĩ
來lai 問vấn 何hà 吉cát 祥tường

"Phật đức thắng chư thiên
Như Lai luôn thuyết Pháp
Có Phạm Chí đến hỏi
Điều gì cát tường nhất?

於ư 是thị 佛Phật 愍mẫn 傷thương
為vi 說thuyết 真chân 有hữu 要yếu
已dĩ 信tín 樂nhạo 正Chánh 法Pháp
是thị 為vi 最tối 吉cát 祥tường

Bấy giờ Phật thương xót
Liền giảng Đạo chân thật
Tín thọ mến Chánh Pháp
Đó là cát tường nhất

亦diệc 不bất 從tùng 天thiên 人nhân
希hy 望vọng 求cầu 僥kiểu 倖hãnh
亦diệc 不bất 禱đảo 神thần 祠từ
是thị 為vi 最tối 吉cát 祥tường

Nếu không từ trời người
Hy vọng cầu may mắn
Cũng không cúng thờ thần
Đó là cát tường nhất

友hữu 賢hiền 擇trạch 善thiện 居cư
常thường 先tiên 為vi 福phước 德đức
勅sắc 身thân 承thừa 貞trinh 正chánh
是thị 為vi 最tối 吉cát 祥tường

Bạn hiền, sống chốn lành
Thường nghĩ tích phước đức
Thân nghiệp luôn chân chánh
Đó là cát tường nhất

去khứ 惡ác 從tùng 就tựu 善thiện
避tị 酒tửu 知tri 自tự 節tiết
不bất 婬dâm 於ư 女nữ 色sắc
是thị 為vi 最tối 吉cát 祥tường

Lìa ác tu việc lành
Bỏ rượu biết tiết chế
Nữ sắc không tham đắm
Đó là cát tường nhất

多đa 聞văn 如như 戒giới 行hành
法Pháp 律luật 精tinh 進tấn 學học
修tu 己kỷ 無vô 所sở 爭tranh
是thị 為vi 最tối 吉cát 祥tường

Đa văn siêng trì giới
Kinh giới tinh tấn học
Tu thân không đua tranh
Đó là cát tường nhất

居cư 孝hiếu 事sự 父phụ 母mẫu
治trị 家gia 養dưỡng 妻thê 子tử
不bất 為vi 空không 乏phạp 行hành
是thị 為vi 最tối 吉cát 祥tường

Hiếu thảo thờ mẹ cha
Lo lắng cho gia đình
Chẳng làm việc vô nghĩa
Đó là cát tường nhất

不bất 慢mạn 不bất 自tự 大đại
知tri 足túc 念niệm 反phản 覆phúc
以dĩ 時thời 誦tụng 習tập 經Kinh
是thị 為vi 最tối 吉cát 祥tường

Không ngạo mạn tự đại
Luôn phản tỉnh biết đủ
Dành thời gian đọc Kinh
Đó là cát tường nhất

所sở 聞văn 常thường 欲dục 忍nhẫn
樂nhạo 欲dục 見kiến 沙Sa 門Môn
每mỗi 講giảng 輒triếp 聽thính 受thọ
是thị 為vi 最tối 吉cát 祥tường

Lòng nhẫn việc không tốt
Vui muốn thấy Đạo Nhân
Nghe Pháp luôn tín thọ
Đó là cát tường nhất

持trì 齋trai 修tu 梵Phạm 行hành
常thường 欲dục 見kiến 賢hiền 明minh
依y 附phụ 明minh 智trí 者giả
是thị 為vi 最tối 吉cát 祥tường

Ăn chay tu tịnh hành
Luôn mong gặp thánh hiền
Thân cận bậc trí tuệ
Đó là cát tường nhất

已dĩ 信tín 有hữu 道Đạo 德đức
正chánh 意ý 向hướng 無vô 疑nghi
欲dục 脫thoát 三tam 惡ác 道đạo
是thị 為vi 最tối 吉cát 祥tường

Tín tâm nơi Chánh Đạo
Chánh ý không hoài nghi
Muốn thoát ba đường ác
Đó là cát tường nhất

等đẳng 心tâm 行hành 布bố 施thí
奉phụng 諸chư 得đắc 道Đạo 者giả
亦diệc 敬kính 諸chư 天thiên 人nhân
是thị 為vi 最tối 吉cát 祥tường

Tâm bình đẳng bố thí
Phụng sự bậc đắc Đạo
Cũng kính hàng trời người
Đó là cát tường nhất

常thường 欲dục 離ly 貪tham 婬dâm
遇ngộ 癡si 瞋sân 恚khuể 意ý
能năng 習tập 成thành 道Đạo 見kiến
是thị 為vi 最tối 吉cát 祥tường

Luôn muốn lìa tham dục
Sân hận và si mê
Khéo tu thấy dấu Đạo
Đó là cát tường nhất

若nhược 以dĩ 棄khí 非phi 務vụ
能năng 勤cần 修tu 道Đạo 用dụng
常thường 事sự 於ư 可khả 事sự
是thị 為vi 最tối 吉cát 祥tường

Nếu bỏ việc phi pháp
Siêng năng tu Chánh Đạo
Luôn làm việc nên làm
Đó là cát tường nhất

一nhất 切thiết 為vì 天thiên 下hạ
建kiến 立lập 大đại 慈từ 意ý
修tu 人nhân 安an 眾chúng 生sanh
是thị 為vi 最tối 吉cát 祥tường

Tất cả vì thiên hạ
Kiến lập tâm đại từ
Tu thiện an chúng sanh
Đó là cát tường nhất

智trí 者giả 居cư 世thế 間gian
常thường 習tập 吉cát 祥tường 行hành
自tự 致trí 成thành 慧tuệ 見kiến
是thị 為vi 最tối 吉cát 祥tường

Người trí sống thế gian
Luôn làm việc cát tường
Thành tựu chân trí tuệ
Đó là cát tường nhất"

梵Phạm 志Chí 師sư 徒đồ聞văn 佛Phật 說thuyết 偈kệ欣hân 然nhiên 意ý 解giải甚thậm 大đại 歡hoan 喜hỷ前tiền 白bạch 佛Phật 言ngôn
Khi nghe kệ của Phật, thầy trò Phạm Chí sanh tâm đại hoan hỷ, cõi lòng mở thông, rồi ở trước Phật thưa rằng:

甚thậm 妙diệu 世Thế 尊Tôn世thế 所sở 希hy 有hữu由do 來lai 迷mê 惑hoặc未vị 及cập 𨶳khuy 明minh唯duy 願nguyện 世Thế 尊Tôn矜căng 愍mẫn 濟tế 度độ願nguyện 身thân 自tự 歸quy佛Phật 法Pháp 三Tam 尊Tôn得đắc 作tác 沙Sa 門Môn冀ký 在tại 下hạ 行hành
"Thật vi diệu thay, thưa Thế Tôn! Thế gian có những việc hy hữu như vậy. Từ xưa do mê muội nên chúng con chẳng tỏ ngộ. Kính mong Thế Tôn thương xót từ bi cứu độ. Chúng con xin tự quy y Phật Pháp Tăng và mong được làm Đạo Nhân để tu hành trong Pháp của Ngài."

佛Phật 言ngôn
Đức Phật bảo:

大đại 善thiện善thiện 來lai 比Bỉ 丘Khâu
"Lành thay, thiện lai Bhikṣu!"

即tức 成thành 沙Sa 門Môn內nội 思tư 安an 般ban逮đãi 得đắc 應Ưng 真Chân聽thính 者giả 無vô 數số皆giai 得đắc 法Pháp 眼nhãn
Các Phạm Chí lập tức trở thành Đạo Nhân. Sau khi tu tập quán sát hơi thở ra vào, họ đều thành bậc Ưng Chân. Bấy giờ có vô số người đến nghe Pháp cũng đều được Pháp nhãn thanh tịnh.

法Pháp 句Cú 譬Thí 喻Dụ 經Kinh 卷quyển 第đệ 四tứ
Kinh Pháp Cú Thí Dụ ♦ Hết quyển 4

晉Tấn 世Thế 法Pháp 師Sư 法Pháp 炬Cự 共cộng 法Pháp 立Lập 譯dịch
Dịch sang cổ văn: Pháp sư Pháp Cự và Pháp sư Pháp Lập ở Thế Kỷ 4
Dịch sang tiếng Việt: Tại gia Bồ-tát giới Thanh tín nam Nguyên Thuận
Phiên âm và chấm câu: Tại gia Bồ-tát giới Thanh tín nam Nguyên Thuận
Phiên âm: 9/5/2014 ◊ Dịch nghĩa: 27/9/2015 ◊ Cập nhật: 26/4/2023

Cách đọc âm tiếng Phạn

Bhikṣu: bíc su
Đang dùng phương ngữ: BắcNam