Kinh Pháp Cú ♦ Quyển thượng

Phẩm 1: Vô Thường


Phẩm Vô Thường có 21 bài kệ. Đại ý của phẩm này là nói lúc tỉnh mà chạy theo dục vọng thì sẽ hôn ám mê loạn. Vinh hoa và tánh mạng đều khó có thể bảo hộ lâu dài. Duy chỉ có Đạo mới là chân thật.

[1]
Tỉnh giác từ ngủ say
Nên hoan hỷ tư duy
Lắng nghe điều Ta nói
Soạn tập lời Phật dạy

[2]
Tất cả hành vô thường
Đều là pháp hưng suy
Có sanh ắt phải tử
Tịch diệt an vui nhất

[3]
Ví như người thợ gốm
Trộn đất nắn làm đồ
Chúng thảy rồi vỡ nát
Mạng sống cũng như vậy

[4]
Như nước sông chảy xiết
Trôi xuôi chẳng ngược dòng
Đời người cũng như thế
Qua rồi không trở lại

[5]
Như người cầm roi trông
Chăn bò cho ăn cỏ
Già chết cũng như thế
Nuôi lớn rồi cướp đi

[6]
Trăm ngàn chẳng được một
Hào quý bất cứ ai
Tích trữ chứa tài sản
Không gì chẳng suy tàn

[7]
Bề bộn suốt ngày đêm
Mạng sống tự giảm dần
Tuổi thọ khi tiêu hết
Như giếng khô cạn nước

[8]
Thường hằng rồi cũng tận
Cao tột rồi cũng đọa
Có hợp ắt có tan
Có sanh ắt có tử

[9]
Chúng sanh cùng tương tranh
Cho đến mất cả mạng
Tùy nghiệp mà đọa thăng
Họa phước tự lãnh thọ

[10]
Già yếu nếm khổ đau
Khi chết thức ra đi
Tham luyến ngục gia đình
Sanh tử chẳng thể đoạn

[11]
Thoáng chốc cái già đến
Hình sắc suy biến tàn
Thiếu thời tâm như ý
Tuổi già nạn bủa vây

[12]
Dù sống đến trăm tuổi
Cũng bị chết bám theo
Già bệnh mãi áp bức
Hoạn nạn đến đời sau

[13]
Một ngày đã trôi qua
Thọ mạng cũng giảm dần
Như cá đang thiếu nước
Thử hỏi có gì vui?

[14]
Lúc già nhan sắc tàn
Bệnh tật hủy hoại ta
Thân thể thối rữa nát
Cái chết là lẽ thường

[15]
Thân này để làm gì?
Nơi luôn tiết đồ dơ
Bệnh hoạn làm khốn khổ
Già suy rồi phải chết

[16]
Tham dục ý buông lung
Sai quấy ngày càng tăng
Không thấy cũng chẳng nghe
Thọ mạng là vô thường

[17]
Chẳng con chẳng cha anh
Có thể cậy nương nhờ
Bị chết làm khổ bức
Không ai có thể hộ

[18]
Ngày đêm lười kiêu mạn
Đã già còn dâm dật
Có tiền không bố thí
Chẳng vâng lời Phật dạy
Bị bốn việc đó che
Tự mình hại chính mình

[19]
Vào biển trú hư không
Dù vào tận hang núi
Chẳng có một nơi nào
Thoát miễn khỏi phải chết

[20]
Việc này do mình tạo
Nghiệp báo sẽ như thế
Ai siết bởi phiền não
Thẳng tiến già chết sầu

[21]
Biết rồi, tự tĩnh lặng
Như thế thấy hết sanh
Bhikṣu [bíc su]! Nhàm phiền não
Ra khỏi chốn sanh tử

Phẩm 2: Giáo Học


Phẩm Giáo Học có 29 bài kệ. Đại ý của phẩm này là chỉ dạy phương cách tu hành; hãy cởi bỏ hôn ám và ngu muội của mình thì sẽ thấy được ánh sáng của Đạo.

[1]
Dậy đi! Sao ngủ mãi?
Như ong, ốc, trai, mọt
Ẩn náu nơi bất tịnh
Mê lầm cho tốt thay

[2]
Đã bị trọng thương nặng
Lòng nhói như bệnh đau
Gặp phải lắm ách nạn
Sao còn lo ham ngủ?

[3]
Tư duy chẳng buông lung
Nhân từ học thánh Đạo
Từ đó không ưu sầu
Chánh niệm vọng tự trừ

[4]
Chánh kiến học Đạo tăng
Trí tuệ soi thế gian
Phước sanh trăm ngàn đời
Vĩnh không đọa đường ác

[5]
Chớ học theo tà đạo
Mà tin lời tà kiến
Chớ nhiễm thói phóng đãng
Mà khiến dục vọng tăng

[6]
Thiện Pháp khéo tu hành
Học tập chớ vi phạm
Hành Đạo không ưu phiền
Đời đời thường an vui

[7]
Siêng học nhiếp thân tâm
Lời nói luôn thận trọng
Tất đến nơi bất tử
Hành diệt sẽ được an

[8]
Điều sai chớ có học
Việc đúng hãy thực hành
Hiểu rõ Pháp tu trì
Lậu tận đắc tịch diệt

[9]
Thấy Pháp lợi thân tâm
Tất đến nơi an lành
Tinh cần làm lợi ích
Đó là bậc hiền minh

[10]
Ai khởi niệm giác ngộ
Học Đạo thêm kiên cố
Ai chấp diệt buông lung
Tổn giảm mà chẳng tăng

[11]
Chuyên nhất ý kiên cường
Tu học đắc Trung Đạo
Ai hiểu nghĩa lý này
Nên nhớ luôn hành trì

[12]
Trước đoạn tâm tham ái
Kiêu mạn và tà kiến
Diệt sạch mọi kết sử
Đó là thượng Đạo Nhân

[13]
Tu học nếu không có
Bạn tốt Thiện Tri Thức
Giữ thiện tu một mình
Đừng cùng với kẻ ngu

[14]
Tu học siêng trì giới
Cần chi bạn đồng hành?
Một mình chẳng ưu phiền
Như voi giữa rừng hoang

[15]
Trì giới lại đa văn
Cả hai khéo rõ thông
Mới xưng bậc giới văn
Nên học gắng tu hành

[16]
Học Đạo trước giữ giới
Sáu căn sẽ kiên cố
Bố thí chẳng cầu báo
Siêng năng chớ nằm lười

[17]
Dù ai sống trăm năm
Tà kiến tâm bất thiện
Chẳng bằng sống một ngày
Tinh tấn thọ Chánh Pháp

[18]
Dù ai sống trăm năm
Thờ lửa luyện phép thuật
Chẳng bằng trong khoảnh khắc
Trì giới được thắng phước

[19]
Làm được mới hãy nói
Chẳng thể chớ nói suông
Giả dối không thành tín
Bậc trí sớm vứt trừ

[20]
Học Đạo cầu tín giải
Quán sát lẽ đúng sai
Biết Pháp hãy dạy người
Đuốc tuệ chẳng còn mê

[21]
Bện tóc học đạo tà
Áo cỏ nội tâm tham
Mờ mịt chẳng hiểu rõ
Như điếc nghe nhạc âm

[22]
Có tu mới xả ác
Dùng thuốc trừ ba độc
Trượng phu vượt sanh tử
Như rắn lột thay da

[23]
Tu học mà đa văn
Trì giới không sai phạm
Hiện đời cùng vị lai
Tiếng thơm sở nguyện thành

[24]
Tu học kém hiểu biết
Trì giới không trọn vẹn
Hiện đời cùng vị lai
Thọ khổ bổn nguyện tan

[25]
Học Đạo có hai điều
Luôn gần bậc đa văn
Chân Đế giải nghĩa thâm
Tuy nhọc chẳng đọa tà

[26]
Cỏ dại hại đồng lúa
Nhiều dục hại tu học
Nhổ cỏ trừ tà ác
Thu hoạch tất được nhiều

[27]
Nghĩ kỹ rồi hãy nói
Ngôn từ chớ hung bạo
Y Pháp giảng nghĩa lý
Lời lẽ chớ phạm sai

[28]
Khéo học chớ vi phạm
Sợ ác rõ cấm kỵ
Ai biết thấy tường tận
Hoạn nạn, sau chẳng còn

[29]
Lìa xa tội cùng phước
Việc làm sẽ tịnh hành
Luôn mãi tự nhiếp phục
Ấy là bậc khéo tu

Phẩm 3: Đa Văn


Phẩm Đa Văn có 19 bài kệ. Đại ý của phẩm này cũng khuyên tu học nghe Pháp. Vun bồi học rộng, trở thành bậc thánh, và tự đạt đến chánh giác.

[1]
Đa văn vững tu hành
Trì Pháp làm bức tường
Tinh tấn hủy khó leo
Từ đó giới tuệ thành

[2]
Đa văn khai sáng tâm
Tâm sáng trí tuệ tăng
Trí tăng rộng giải nghĩa
Thấy nghĩa hành Pháp an

[3]
Đa văn khéo trừ lo
Khéo vào thiền định an
Khéo giảng Pháp cam lộ
Tự đắc Đạo tịch diệt

[4]
Nghe Pháp biết Kinh giới
Trừ nghi thấy chân lý
Do nghe lìa pháp ác
Đi đến nơi bất tử

[5]
Minh sư khéo hiện Đạo
Trừ nghi tu học thông
Thanh tịnh gốc phiền não
Pháp tạng khéo phụng trì

[6]
Khéo nhiếp giảng nghĩa thâm
Hiểu rõ chẳng sai phạm
Thọ Pháp nương theo Pháp
Từ đó mau được an

[7]
Nếu chỉ hiểu chút ít
Tự đại kiêu mạn khinh
Đó như mù cầm đuốc
Soi người chẳng soi mình

[8]
Cầu tài ham tước vị
Quyền quý hưởng phước trời
Tuệ biện xuất thế gian
Đa văn là đệ nhất

[9]
Vua trọng bậc hiền minh
Chư thiên cũng như thế
Đa văn là bảo tạng
Lực mạnh giàu sang nhất

[10]
Bậc trí kính đa văn
Đạo Nhân cũng hoan hỷ
Vua chúa hết lòng mến
Thiên đế, Phạm, cũng thế

[11]
Tiên nhân trọng đa văn
Hà huống đại phú gia
Bởi tuệ là quý nhất
Đáng kính không gì hơn

[12]
Thờ trời vì ánh sáng
Hiếu cha vì ân đức
Trung vua vì bảo hộ
Kính hiền vì đa văn

[13]
Mạnh khỏe nhờ lương y
Muốn thắng nhờ hào kiệt
Phật Pháp ở trí tuệ
Phước tu sáng muôn đời

[14]
Bạn lành ở công việc
Chân tình lúc hiểm nguy
Hạnh phúc nơi căn buồng
Biết trí qua ngôn lời

[15]
Đa văn lợi hiện đời
Vợ con anh em bạn
Cũng được phước đời sau
Tích lũy thành thánh trí

[16]
Muốn khéo diệt âu lo
Cũng trừ việc hung suy
Muốn được an ổn lành
Hãy kính bậc đa văn

[17]
Trọng thương chẳng bằng ưu
Trúng tên chẳng bằng ngu
Dù mạnh chẳng thể nhổ
Đa văn mới tận trừ

[18]
Như mù có được mắt
Như ngu có được đuốc
Học rộng dẫn người đời
Như sáng dẫn kẻ mù

[19]
Cho nên ai trừ si
Ly dục diệt kiêu mạn
Học tập kính đa văn
Đó là tích lũy đức

Phẩm 4: Chánh Tín


Phẩm Chánh Tín có 18 bài kệ. Đại ý của phẩm này nói về tín tâm là căn bổn của việc học Phật tu Đạo. Nếu có được chánh kiến thì sự tu hành sẽ không thoái chuyển.

[1]
Tín giới tàm quý tài
Là Pháp thánh hiền khen
Đạo này bậc trí giảng
Giúp người sanh lên trời

[2]
Kẻ ngu chẳng tu thiện
Bố thí cũng chẳng khen
Tín thí trợ người hiền
Từ đó đến chốn lành

[3]
Tín tâm trưởng dưỡng Đạo
Niệm Pháp trụ an lạc
Ai gần đắc thượng trí
Trường thọ giữa thánh hiền

[4]
Tin sâu mới đắc Đạo
Như Pháp được diệt độ
Từ đó trí tuệ thành
Nơi đến quang minh chiếu

[5]
Vững tin vượt bể sâu
Nhiếp ý làm thuyền trưởng
Tinh tấn trừ khổ ách
Trí tuệ qua bờ kia

[6]
Ai tín niệm phụng hành
Thánh hiền sẽ ngợi khen
Ai vui thích vô vi
Cởi bỏ mọi buộc ràng

[7]
Tín tâm và giới Pháp
Tuệ ý khéo tu hành
Trượng phu đoạn phiền não
Nhân đó thoát luân hồi

[8]
Tín khiến giới thành tựu
Cũng được thọ và tuệ
Nơi nơi khéo hành Đạo
Chốn chốn người cúng dường

[9]
So sánh lợi xuất thế
Tín tuệ là trí mẫu
Tài này cao quý thượng
Gia sản vốn chẳng thường

[10]
Muốn thấy chư thánh hiền
Thích nghe giáo Pháp mầu
Khéo xả tâm cấu trược
Đó mới là tin sâu

[11]
Có tín mới vượt sông
Phước ấy khó xâm đoạt
Giặc cướp khéo ngăn trừ
Nhàn tĩnh Đạo Nhân lạc

[12]
Bất tín chẳng tu hành
Lời thật ưa bác bỏ
Như vụng về múc nước
Khuấy suối nổi bùn dơ

[13]
Bậc trí tu tín tuệ
Khát ngưỡng Đạo thanh cao
Như khéo múc nước suối
Nhẹ nhàng chẳng khuấy tung

[14]
Tín tuệ không nhiễm ác
Chỉ gần bậc hiền minh
Điều hay nên học hỏi
Việc xấu phải lánh xa

[15]
Lòng tin như ngồi xe
Chở ta đến nơi đích
Giống như huấn luyện voi
Tự điều là tối thắng

[16]
Tín tài và giới tài
Tàm tài cộng quý tài
Cùng với văn, thí, tuệ
Gọi là Bảy Pháp Tài

[17]
Do tín mà giữ giới
Thanh tịnh thường quán Pháp
Tu tuệ lợi mình người
Phụng kính chẳng lãng quên

[18]
Ai có Bảy Pháp Tài
Chẳng kể nam hay nữ
Mãi mãi không nghèo túng
Bởi họ thấy chân lý

Phẩm 5: Trì Giới


Phẩm Trì Giới có 16 bài kệ. Đại ý của phẩm này là sách tấn tu trì thiện Pháp, ngăn chặn tà kiến và phi pháp, để về sau khỏi phải hối tiếc.

[1]
Tâm ai thường trong sáng
Phụng trì giới đầy đủ
Thanh tịnh tu việc lành
Đó là giới thành tựu

[2]
Bậc trí khéo hộ giới
Sẽ được ba phước báo
Lợi lành tiếng thơm vang
Mạng chung sanh lên trời

[3]
Nên thấy người trì giới
Hộ giới trí tuệ sanh
Thành tựu chánh tri kiến
Họ được an vui lành

[4]
Trì giới được an lạc
Khiến thân chẳng não phiền
Đêm nằm điềm tĩnh yên
Thức dậy thường an vui

[5]
Giữ giới hành bố thí
Tu phước tích phước điền
Từ đó qua bờ kia
Thường đến nơi an vui

[6]
Điều gì là cực thiện?
Tu gì được an lạc?
Thứ gì trân quý nhất?
Cái gì chẳng thể đoạt?

[7]
Giới hạnh là cực thiện
Trì giới được an lạc
Trí tuệ trân quý nhất
Phước đức chẳng thể đoạt

[8]
Bhikṣu lập giới đức
Thủ hộ nhiếp các căn
Ăn uống biết chừng mực
Ngủ thức ý tương ứng

[9]
Dùng giới hàng phục tâm
Thủ hộ chánh định ý
Nhất tâm tu Chỉ Quán
Không quên là chánh trí

[10]
Hiền minh thủ hộ giới
Chánh trí tâm tư duy
Hành Đạo luôn tương ứng
Khổ ách tự trừ sạch

[11]
Trừ sạch các tội cấu
Nhổ tận chớ sanh nghi
Trọn đời cầu giới Pháp
Thánh niệm chớ lìa xa

[12]
Giới định tuệ giải thoát
Phải nên khéo quán sát
Trần cấu đều đã lìa
Diệt trừ họa ba cõi

[13]
Giải thoát mọi ràng buộc
Si mê diệt trừ sạch
Vượt khỏi các cảnh ma
Chiếu sáng như mặt trời

[14]
Ngã mạn với cuồng mê
Bhikṣu phải xa lánh
Tu hành giới định tuệ
Tinh cần chớ lìa xa

[15]
Trì giới ý thanh tịnh
Nhiếp tâm chẳng buông lung
Chánh trí đã mở thông
Chẳng gặp tà kiến vây

[16]
Đi đến nơi cát tường
Chứng thành Đạo vô thượng
Cũng lìa pháp ác tà
Ly chướng trừ chúng ma

Phẩm 6: Tư Duy


Phẩm Tư Duy có 12 bài kệ. Đại ý của phẩm này là dạy chúng ta hãy cẩn thận gìn giữ niệm khởi vi tế của tâm và quán sát hơi thở ra vào, tất sẽ ngộ trọng yếu của Đạo.

[1]
Quán hơi thở ra vào
Chú tâm tư duy kỹ
Thông suốt đầu đến cuối
Quán sát như Phật dạy

[2]
Đó là chiếu thế gian
Như mây tan trăng hiện
Đi đứng học tư duy
Nằm ngồi đừng quên lãng

[3]
Bhikṣu lập niệm này
Hiện đời và hậu thế
Thắng lợi mãi chẳng cùng
Vĩnh không đọa sanh tử

[4]
Nếu thấy thân an trụ
Sáu căn gìn giữ hộ
Bhikṣu luôn nhất tâm
Tự biết chứng tịch diệt

[5]
Đã có các niệm này
Tự mình luôn hành trì
Như vậy mà chẳng thể
Vĩnh không chế phục tâm

[6]
Ai tu Pháp căn bổn
Như thế vượt trần lao
Ý niệm mà khéo ngộ
Đắc định tâm an vui
Tùy thời tu các Pháp
Mới thoát sanh già chết

[7]
Bhikṣu ngộ ý niệm
Phải khiến niệm tương ứng
Sanh tử phiền não đoạn
Chứng đắc Đạo tịch diệt

[8]
Thường nên nghe diệu Pháp
Tự ngộ tâm ý mình
Ai giác làm thánh hiền
Sợ hãi vĩnh chẳng còn

[9]
Giác ngộ tâm tương ứng
Ngày đêm siêng tu học
Liễu giải Pháp cam lộ
Nhất định được vô lậu

[10]
Nếu ai được lợi lành
Tất đến Quy Y Phật
Cho nên ngày lẫn đêm
Thường niệm Phật Pháp Tăng

[11]
Tự ngộ tâm ý mình
Đó là đệ tử Phật
Ngày đêm hãy luôn niệm
Công đức Phật Pháp Tăng

[12]
Niệm thân niệm vô thường
Niệm giới bố thí đức
Vô nguyện, không, vô tướng
Ngày đêm hãy nhớ niệm

Phẩm 7: Từ Bi


Phẩm Từ Bi có 18 bài kệ. Đại ý của phẩm này là nói về nơi tu hành của thánh nhân; bậc đại nhân luôn dùng đức hạnh để rộng độ vô lượng chúng sanh.

[1]
Lòng từ không giết hại
Thân nghiệp luôn khéo nhiếp
Đó là chốn bất tử
Nơi đến chẳng hoạn nạn

[2]
Lòng từ không giết hại
Gìn giữ ngữ ý nghiệp
Đó là chốn bất tử
Nơi đến chẳng hoạn nạn

[3]
Não loạn đã điều phục
Thủ hộ tâm từ bi
Thấy sân vẫn nhẫn chịu
Đó là tu tịnh hành

[4]
Từ tốn tâm chí thành
Không thốt lời ác ôn
Với người chẳng sân hận
Đó là tu tịnh hành

[5]
An tĩnh chắp tay kính
Chẳng hại các chúng sanh
Chẳng gây phiền não sầu
Đó là tu tịnh hành

[6]
Từ mẫn luôn thương xót
Thanh tịnh như Phật dạy
Biết đủ biết dừng lại
Tất vượt thoát sanh tử

[7]
Học rộng ít tham muốn
Lợi danh chẳng mê mang
Nhân nghĩa không xâm phạm
Thế gian ngợi tán dương

[8]
Hiền nhân không tổn phạm
Chẳng theo phù du ảo
Người đời tranh đua giành
Trí tuệ tâm an nhiên

[9]
Hiền lương lòng bác ái
Xót thương các chúng sanh
Tâm từ luôn rải khắp
Nơi đến sẽ an lành

[10]
Hiền nhân không tà ngụy
An trụ chẳng ưu phiền
Chư thiên theo hộ vệ
Bậc trí quý từ bi

[11]
Ngày đêm sanh niệm từ
Dứt tuyệt tâm tranh đấu
Chẳng hại các chúng sanh
Tức không gặp oán cừu

[12]
Giết hại thiếu tâm từ
Phạm giới lại nói dối
Lầm lỗi không bố thí
Chẳng màng sanh già chết

[13]
Uống rượu mất lý trí
Hành vi càng xằng bậy
Chết đọa ba đường ác
Xảo ngụy không chân thành

[14]
Bước theo hạnh từ bi
Bác ái cứu chúng sanh
Có được mười một lợi
Phước đức luôn tùy thân

[15]
Ngủ yên tỉnh giấc an
Chẳng thấy cơn ác mộng
Trời hộ người kính mến
Thuốc độc chiến tranh, không
Chẳng gặp nạn nước lửa
Nơi ở được phước lợi
Chết sanh cõi Phạm Thiên
Đây là mười một lợi

[16]
Nếu dùng tâm từ bi
Vô lượng chẳng quên lãng
Sanh tử dần dần đoạn
Được lợi siêu thế gian

[17]
Nhân từ không loạn chí
Hạnh bi rất khó hành
Thương xót các chúng sanh
Phước đó là vô lượng

[18]
Dù ai trọn suốt đời
Phụng thờ khắp thần linh
Voi ngựa mang tế trời
Chẳng bằng hành từ bi

Phẩm 8: Lời Nói


Phẩm Lời Nói có 12 bài kệ. Đại ý của phẩm này là dạy chúng ta hãy cẩn thận lời nói trong việc nói năng, đàm luận, và phải nên sử dụng phù hợp với Đạo lý.

[1]
Mắng chửi nói lời ác
Kiêu ngạo khinh miệt người
Dấy khởi việc ác này
Oán hận càng sanh thêm

[2]
Thuận ngôn lời khiêm tốn
Tôn trọng kính mến người
Nhẫn ác trừ phiền não
Oán hận tự diệt tan

[3]
Lòng ác ai luôn giữ
Như rìu ở trong miệng
Cho nên tự trảm thân
Do bởi nói lời ác

[4]
Tranh giành đoạt chút lợi
Như mất tài bảo giấu
Từ đó sanh tranh đấu
Khiến tâm hướng đường ác

[5]
Khen ác ca việc xấu
Cả hai đều xấu ác
Miệng lưỡi ưa tranh đấu
Về sau tất chẳng an

[6]
Vô đạo đọa đường ác
Tự tăng địa ngục khổ
Lìa si tu nhẫn ý
Chánh niệm tức không phạm

[7]
Làm lành được giải thoát
Làm ác bị trói buộc
Hiểu suốt làm thánh hiền
Đó là thoát não phiền

[8]
Bhikṣu thu nhiếp ý
Lời nói không vội vã
Nghĩa lý hợp như Pháp
Lời ấy ngọt dịu êm

[9]
Lời nói ai khéo dùng
Họ tất không chiêu hoạn
Cũng chẳng xung khắc người
Đây là lời thiện xảo

[10]
Lời nói hợp với ý
Cũng làm người hoan hỷ
Đừng khiến tâm hướng ác
Lời nói người tin vui

[11]
Chí thành giảng cam lộ
Như Pháp chẳng lỗi lầm
Lời nói hợp Pháp nghĩa
Là gần gốc của Đạo

[12]
Ai giảng như Phật dạy
Cát tường được diệt độ
Tất khéo đoạn phiền não
Đó là lời tối thượng

Phẩm 9: Song Yếu


Phẩm Song Yếu có 22 bài kệ. Đại ý của phẩm này là dùng thiện ác đối nhau để sáng tỏ nghĩa lý.

[1]
Tâm là gốc các pháp
Tâm chỉ đạo làm chủ
Nếu trong tâm nghĩ ác
Thì liền nói liền làm
Tội khổ tự truy đuổi
Như bánh xe theo vết

[2]
Tâm là gốc các pháp
Tâm chỉ đạo làm chủ
Nếu trong tâm nghĩ thiện
Thì liền nói liền làm
Phước lạc tự truy đuổi
Như bóng hiện theo hình

[3]
Loạn ý theo tâm khởi
Ngu si dẫn vào tối
Tự đại không biết Pháp
Làm sao hiểu lời hay?

[4]
Chánh ý theo tâm khởi
Thông suốt hiểu minh bạch
Chẳng bị ganh ghét tham
Liễu đạt rõ lời hay

[5]
Oán hận ai ôm giữ
Oán mãi chưa từng nghỉ
Không hận hận tự trừ
Là Đạo đáng phụng hành

[6]
Kỳ vọng ở nơi người
Chẳng bằng tự xét mình
Như ai biết lẽ này
Hoạn nạn vĩnh diệt trừ

[7]
Tà kiến cho thân tịnh
Các căn chẳng nhiếp phục
Ăn uống không chừng mực
Biếng nhác lại khiếp nhược
Khống chế bởi tà ác
Như cỏ ngã theo gió

[8]
Hãy quán thân bất tịnh
Các căn khéo nhiếp phục
Ăn uống biết chừng mực
Tinh tấn luôn vui thích
Không bị tà ác động
Như gió thổi thái sơn

[9]
Tánh độc không nhổ trừ
Tham muốn lòng rong ruổi
Chưa thể tự điều phục
Không xứng mặc Pháp y

[10]
Tánh độc khéo nhổ trừ
Giữ giới ý an nhiên
Tâm đó đã điều phục
Xứng đáng mặc Pháp y

[11]
Lấy thật cho là giả
Lấy giả cho là thật
Đó là tâm tà kiến
Không được lợi ích lành

[12]
Chân thật biết là thật
Hư ngụy biết là giả
Đó là tâm chánh kiến
Tất được lợi ích lành

[13]
Mái nhà nếu chẳng kín
Trời mưa sẽ luôn rỉ
Ý ai không tư duy
Mãi có tham sân si

[14]
Mái nhà nếu lợp kín
Trời mưa sẽ chẳng rỉ
Ý ai tự tư duy
Vĩnh không tham sân si

[15]
Kẻ xấu ảnh hưởng người
Như gần vật hôi thối
Mê dần làm việc xấu
Bất giác trở thành ác

[16]
Bậc hiền ảnh hưởng người
Như gần làn khói hương
Trí tăng làm việc lành
Hành nguyện tỏa ngát thơm

[17]
Gây ưu đời sau ưu
Tạo ác với sầu muộn
Sợ hãi luôn ưu phiền
Thấy tội lòng ngậm ngùi

[18]
Tạo vui đời sau vui
Làm thiện với hoan hỷ
Hân hoan thường vui vẻ
Thấy phước tâm an nhiên

[19]
Nay khổ đời sau khổ
Làm ác với khổ đau
Tự mình gặp tai ương
Thọ tội phiền não nhiệt

[20]
Nay vui đời sau vui
Làm thiện với hoan hỷ
Tự mình gặp duyên lành
Phước báo thọ an vui

[21]
Tham cầu nói khôn khéo
Phóng đãng không giữ giới
Ôm lòng tham sân si
Chỉ Quán chẳng tư duy
Tụ tập như bầy trâu
Không phải đệ tử Phật

[22]
Vô cầu nói đúng lúc
Hành Đạo hợp như Pháp
Diệt trừ tham sân si
Chánh giác ý liễu giải
Thấy nghịch tâm chẳng động
Đó là đệ tử Phật

Phẩm 10: Buông Lung


Phẩm Buông Lung có 20 bài kệ. Đại ý của phẩm này là chỉ dạy giới luật để ngăn trừ điều tà ác và lỗi lầm; dùng Đạo khuyến tu hiền đức.

[1]
Giới là Đạo cam lộ
Buông lung là tử lộ
Không tham sẽ bất tử
Mất Đạo sẽ tự diệt

[2]
Người trí hành thắng Đạo
Vĩnh viễn chẳng buông lung
Hoan hỷ do không tham
Pháp lạc từ đây sanh

[3]
Tư duy luôn niệm Đạo
Dũng mãnh tu chánh hành
Trượng phu vượt thế gian
Cát tường không gì hơn

[4]
Chánh niệm luôn hưng khởi
Thanh tịnh ác dễ diệt
Y Pháp tự chế phục
Không phạm tiếng thơm vang

[5]
Tinh tấn không buông lung
Chế phục tự điều tâm
Trí tuệ sanh định minh
Hố thẳm chẳng còn rơi

[6]
Kẻ ngu trí kém hiểu
Ưa loạn thích tranh đấu
Thượng trí luôn thận trọng
Chánh niệm hộ như báu

[7]
Chớ tham chớ đua tranh
Cũng đừng ham dục lạc
Tâm ý chẳng buông lung
Mới được an vui lớn

[8]
Buông lung luôn tự cấm
Khéo trừ làm thánh hiền
Đã thăng lầu trí tuệ
Bỏ nguy liền được an
Người trí nhìn kẻ ngu
Như núi so với đất

[9]
Chánh hành giữa chốn loạn
Đó là Độc Giác ngộ
Lực này hơn sư tử
Bỏ ác là đại trí

[10]
Say ngủ nặng như núi
Che trùm bởi si mê
Nằm lì chẳng nghĩ cách
Nên luôn thọ bào thai

[11]
Tâm ý không phóng túng
Lậu tận được ý giải
Ma thừa lúc buông lung
Như sư tử vồ nai

[12]
Ai khéo chẳng buông lung
Là người trì giới luật
Thanh tịnh chánh tư duy
Luôn nên tự hộ tâm

[13]
Bhikṣu hãy cẩn thận
Buông lung lắm ưu phiền
Tranh tụng nhỏ thành lớn
Tích ác vào đám lửa

[14]
Giữ giới tăng phước thiện
Phạm giới tâm lo âu
Khéo đoạn lậu ba cõi
Đó mới gần tịch diệt

[15]
Ai trước từng buông lung
Sau khéo tự cấm chế
Là chiếu sáng thế gian
Họ nên nhớ tu định

[16]
Thuở xưa lỡ làm ác
Bù lại siêng làm lành
Là chiếu sáng thế gian
Họ nên nhớ tu thiện

[17]
Thiếu niên mà xuất gia
Siêng tu lời Phật dạy
Là chiếu sáng thế gian
Như trăng lìa mây che

[18]
Ai trước lỡ làm ác
Sau ngừng không tái phạm
Là chiếu sáng thế gian
Như trăng lìa mây che

[19]
Hiện đời không não hại
Lúc chết chẳng âu lo
Kia thấy Đạo vô úy
Lìa khổ được an vui

[20]
Đoạn trừ pháp ô trược
Chỉ học Pháp thanh tịnh
Sanh tử không quay lại
Xả ái dừng việc ác
Dục lạc chẳng còn nhiễm
Diệt dục không ưu sầu

Phẩm 11: Tâm Ý


Phẩm Tâm Ý có 12 bài kệ. Đại ý của phẩm này là nói về tâm ý thức; tuy không có hình tướng nhưng sự tạo tác của chúng là vô cùng vô tận.

[1]
Rong ruổi ý sai sử
Khó phòng khó cấm chế
Chánh trí hàng bổn tâm
Tuệ minh chiếu hiển hách

[2]
Vụt nhanh khó hộ trì
Là nơi dục niệm trú
Nhiếp ý là việc lành
Điều phục liền khinh an

[3]
Ý niệm rất khó thấy
Theo dục mà rong ruổi
Trí tuệ luôn tự hộ
Khéo giữ liền được an

[4]
Đơn độc đi cùng khắp
Ẩn tàng vô hình tướng
Nhiếp ý gần với Đạo
Giải thoát khỏi ma chướng

[5]
Vọng tâm chẳng dừng nghỉ
Cũng chẳng biết Pháp lành
Trầm mê việc thế gian
Không có chánh tri kiến

[6]
Vọng niệm chẳng dừng nghỉ
Vô biên bất đoạn tuyệt
Phước lực khéo trừ ác
Giác ngộ làm thánh hiền

[7]
Phật nói tất cả pháp
Tuy diệu nhưng phi chân
Vọng niệm nên cảnh giác
Chớ theo tâm buông lung

[8]
Thấy Pháp an lạc nhất
Sở nguyện tất viên thành
Trí tuệ phòng hộ ý
Đoạn trừ khổ nhân duyên

[9]
Thân này chẳng bao lâu
Trở về với cát bụi
Thân hoại thức ra đi
Sao còn tham luyến nhớ?

[10]
Tâm hướng nơi tạo tác
Đến đi không dấu vết
Nếu lòng nhiều tà ác
Tai họa tự chuốc lấy

[11]
Niệm này do mình tạo
Chẳng phải cha mẹ làm
Trừ tà tu chánh định
Tu phước chớ thoái lui

[12]
Nhiếp sáu căn như rùa
Phòng hộ ý như thành
Kiếm tuệ chiến đấu ma
Thắng lợi không hoạn nạn

Phẩm 12: Hương Hoa


Phẩm Hương Hoa có 17 bài kệ. Đại ý của phẩm này là nói học tập Phật Pháp cần phải sáng suốt và thực tiễn tu hành. Nhân có hoa nên mới thấy quả. Hãy chuyển hư ngụy thành chân thật.

[1]
Ai khéo lựa nơi xứ
Lìa đường ác sanh thiên?
Ai khéo giảng Pháp nghĩa
Như khéo hái hoa xinh?

[2]
Học nhân khéo lựa nơi
Lìa đường ác sanh thiên
Khéo giảng diệu Pháp nghĩa
Khéo hái hoa công đức

[3]
Quán thân như sành gốm
Huyễn hóa như ảo ảnh
Chặt đứt nụ hoa ma
Không đọa vòng sanh tử

[4]
Thấy thân như bọt nước
Biết đó là huyễn hóa
Chặt đứt nụ hoa ma
Không đọa vòng sanh tử

[5]
Thân bệnh ắt suy nhược
Như hoa rơi héo tàn
Một mai cái chết đến
Ví như nước chảy xiết

[6]
Tham dục không nhàm chán
Tiêu tan mọi chánh niệm
Ý tà ham tài bảo
Chiêu họa dối gạt mình

[7]
Ví như ong hút mật
Không tổn hoa sắc hương
Chỉ lấy vị rồi đi
Như Bhikṣu vào làng

[8]
Chuyện người chớ lưu tâm
Tốt xấu việc của họ
Mà hãy luôn phản tỉnh
Thiện ác của chính mình

[9]
Ví như hoa khả ý
Sắc đẹp mà chẳng thơm
Lời hoa mỹ cũng thế
Không có lợi ích gì

[10]
Ví như hoa khả ý
Sắc đẹp lại ngát thơm
Lời dịu êm cũng thế
Tất được phước lợi lành

[11]
Lấy nhiều hoa xinh đẹp
Kết thành vòng trang sức
Ai rộng tích thiện căn
Đời sau sanh chốn lành

[12]
Kỳ hoa dị thảo hương
Không ngược làn gió thổi
Hiền giả gần Chánh Đạo
Đức hạnh tỏa ngát thơm

[13]
Hương mộc và hương đàn
Cùng hương hoa sen xanh
Tuy ngửi thật ngát thơm
Không bằng giới đức hương

[14]
Hương hoa tỏa nhạt nhòa
Chẳng thể gọi là thật
Huân tu trì giới hương
Thù thắng thơm thấu trời

[15]
Thành tựu đầy đủ giới
Tu hành chẳng buông lung
Định tuệ đoạn sanh tử
Vĩnh viễn lìa tà ma

[16]
Ví như ở mương ruộng
Gần cạnh nơi đại lộ
Trong đó mọc hoa sen
Thơm khiết rất đáng yêu

[17]
Có sanh ắt phải chết
Phàm phu ưa nơi đó
Bậc trí quyết thoát ra
Đó là đệ tử Phật

Phẩm 13: Ngu Ám


Phẩm Ngu Ám có 21 bài kệ. Đại ý của phẩm này là khai mở tối tăm và phơi bày trạng thái của nó, hầu khiến cho những ai u mê thấy được ánh sáng.

[1]
Đêm dài ai mất ngủ
Đường dài ai mệt mỏi
Ngu mê luân hồi mãi
Chẳng biết Phật Chánh Pháp

[2]
Si mê luôn hôn ám
Cuốn trôi như dòng nước
Thà rằng đi một mình
Chớ cùng với kẻ ngu

[3]
Kẻ ngu chấp vận mạng
Lo lắng mãi không thôi
Sống chung kẻ dốt, khổ
Với ta sanh oán thù

[4]
Có tiền có con cái
Kẻ ngu mãi lo toan
Cả ta chẳng phải ta
Huống nữa tiền và con?

[5]
Mùa hè sống ở đây
Mùa đông sống ở đây
Kẻ ngu lo lắm việc
Chẳng biết tương lai biến

[6]
Dù ngu đần cực điểm
Tự nhận biết sẽ khôn
Ngu mà cho mình giỏi
Đó mới là cực ngu

[7]
Ngu ám gần bậc trí
Ví như vá múc canh
Cho dù múc luôn khi
Vẫn không biết vị gì

[8]
Thông minh gần bậc trí
Ví như lưỡi nếm vị
Dù chỉ một thoáng thôi
Pháp yếu liền rõ thông

[9]
Hành động của kẻ ngu
Khiến thân chiêu hoạn nạn
Ưa khoái làm việc ác
Tai ương tự chuốc lấy

[10]
Hành vi mà bất thiện
Về sau lòng hối hận
Nước mắt chảy đầm đìa
Báo ứng nghiệp ác xưa

[11]
Hành vi mà lương thiện
Về sau lòng hoan hỷ
Vị lai hưởng phước báo
Mỉm cười tâm vui sướng

[12]
Nghiệp tội chưa chín mùi
Kẻ ngu cho bình yên
Tới khi báo ứng đến
Tự chịu tội khổ đau

[13]
Kẻ ngu chốn ước mong
Không nhận đó là khổ
Mãi khi đọa hiểm nguy
Mới biết nó chẳng lành

[14]
Kẻ ngu lúc làm ác
Không thể tự hiểu thấu
Ương họa đuổi theo đốt
Nghiệp tội cháy phừng phừng

[15]
Kẻ ngu ham ăn ngon
Năm tháng càng tham đắm
Niệm Pháp mười sáu phần
Một phần cũng chưa có

[16]
Kẻ ngu mãi lo toan
Đến cuối không chút lợi
Dao gậy tự chiêu cảm
Báo ứng như ấn chương

[17]
Biết ngu xem hành vi
Không thí mà lắm cầu
Sa đọa đường tà ác
Luôn làm điều ác xấu

[18]
Xa Đạo gần kẻ tham
Mưu sanh tại lợi danh
Gia đình do luyến tham
Lấy nhiều vật cúng dâng

[19]
Học Đạo đừng mắc phải
Chớ làm Đạo Nhân nhà
Tham nhà phạm Thánh giáo
Về sau tự thiếu hao

[20]
Việc đó đồng kẻ ngu
Chỉ khiến dục vọng tăng
Cầu lợi trái sở nguyện
Cầu Đạo cũng chẳng thành

[21]
Bởi vậy ai có trí
Xuất gia Phật đệ tử
Bỏ ái lìa trần lụy
Mãi không đọa sanh tử

Phẩm 14: Minh Triết


Phẩm Minh Triết có 16 bài kệ. Đại ý của phẩm này là nói những ai tu hành trí tuệ chân thật thì phải tu phước báo và tinh tấn học tập Chánh Đạo. Hãy dùng Phật Pháp làm gương sáng.

[1]
Quán sát rõ thiện ác
Lòng biết sợ điều ác
Sợ ác chẳng vi phạm
Cát tường mãi không sầu
Nên ai muốn có phước
Tư duy siêng hành trì
Khéo đạt như ý nguyện
Phước lộc chuyển bội tăng

[2]
Làm phước tin việc lành
Tích thiện không nhàm mỏi
Tin hiểu tu âm đức
Lâu dần sẽ huy hoàng

[3]
Luôn tránh chuyện vô nghĩa
Không gần kẻ ngu si
Tưởng mến theo bạn hiền
Thân cận bậc thượng sĩ

[4]
Pháp hỷ nằm an vui
Tâm vui ý trong sáng
Thánh nhân diễn nói Pháp
Bậc trí luôn mến hành

[5]
Nhân đức bậc trí tuệ
Trai giới kính phụng Đạo
Như trăng giữa vì sao
Chiếu sáng khắp thế gian

[6]
Thợ cung chỉnh góc độ
Thuyền phu chèo lái thuyền
Thợ mộc gọt đẽo gỗ
Bậc trí khéo điều thân

[7]
Ví như khối đá nặng
Cuồng phong không thể dời
Bậc trí ý kiên định
Chê khen chẳng động dao

[8]
Ví như vực nước sâu
Tĩnh lặng lại trong veo
Người trí nghe Đạo mầu
Tâm tịnh ý an nhiên

[9]
Trượng phu tâm vô cầu
Nơi ở tuệ sáng soi
Dù gặp vui hay khổ
Thái độ chẳng tự cao

[10]
Thánh hiền xa việc đời
Chẳng mong tiền và con
Giữ giới luôn tu Đạo
Không tham tà phú quý

[11]
Người trí biết niệm động
Như cây giữa bãi cát
Bằng hữu chí chưa vững
Theo ý nhiễm bụi trần

[12]
Thế gian đều chìm đắm
Ít ai qua bờ kia
Giả sử dù có người
Muốn qua nhưng chạy nhanh

[13]
Cầu Đạo ai chí thành
Tiếp thọ Phật chánh giáo
Người ấy gần bờ kia
Thoát tử làm thượng nhân

[14]
Đoạn trừ pháp năm uẩn
Tĩnh lự trí tuệ sanh
Vực thẳm chẳng còn rơi
Xả ái hiện quang minh

[15]
Chế phục lòng tham luyến
Vô vi đoạn dục lạc
Ai khéo tự cứu mình
Khiến tâm sanh tuệ minh

[16]
Tu học giữ chánh trí
Tâm luôn niệm Chánh Đạo
Nhất tâm thọ Chân Đế
Dục lạc chẳng khởi sanh
Lậu tận tập trừ sạch
Đó là vượt thế gian

Phẩm 15: Ưng Chân


Phẩm Ưng Chân có 10 bài kệ. Đại ý của phẩm này là nói tánh linh của bậc giác ngộ thì xa lìa ái dục, tâm không chấp trước, và ý kiên định không biến đổi.

[1]
Lìa xa mọi ưu sầu
Thoát khỏi mọi hoạn nạn
Trói buộc đã cởi ra
Tĩnh lặng chẳng não phiền

[2]
Tâm tịnh có chánh niệm
Dục lạc chẳng còn tham
Đã qua hố si mê
Như nhạn bỏ ao khô

[3]
Ăn uống biết chừng mực
Tài vật không cất giấu
Vô nguyện, không, vô tướng
Tu hành độ chúng sanh
Như chim giữa bầu trời
Bay xa không trở ngại

[4]
Thế gian tập khí tận
Chẳng còn ham ăn uống
Tâm không chẳng hoạn nạn
Đã đến chốn giải thoát
Ví như loài chim bay
Thoáng đậu rồi liền đi

[5]
Căn tánh ai chế ngự
Như ngựa đã thuần phục
Xả bỏ thói kiêu mạn
Tất được trời cung kính

[6]
Như đất không phẫn nộ
Như núi không dao động
Thánh hiền không cấu nhiễm
Đoạn tuyệt thoát sanh tử

[7]
Vọng niệm đã dừng nghỉ
Chánh ngữ lại chánh hành
Chánh Đạo khiến giải thoát
An nhiên vào tịch diệt

[8]
Lìa dục không chấp trước
Chặt đứt chướng ba cõi
Vọng niệm đã đoạn tuyệt
Đó là bậc thượng nhân

[9]
Hoang dã hoặc xóm làng
Đất bằng hay đồi cao
Chỗ qua của Ưng Chân
Chẳng ai không nhờ ơn

[10]
Thánh nhân thích vắng vẻ
Phàm phu chẳng thể ở
Lành thay không dục vọng
Không chỗ để cầu mong

Phẩm 16: Số Ngàn


Phẩm Số Ngàn có 16 bài kệ. Đại ý của phẩm này là nói rằng, dù học Phật Pháp rất nhiều nhưng lại không lãnh hội được trọng yếu, thì chẳng bằng như học ít mà thông suốt vậy.

[1]
Dù tụng cả ngàn kệ
Chẳng hiểu có ích gì?
Đâu bằng hiểu một câu
Nghe rồi ý tịch nhiên

[2]
Dù tụng cả ngàn kệ
Chẳng hiểu có ích gì?
Đâu bằng chỉ một câu
Nghe rồi liễu thoát khổ

[3]
Dù tụng nhiều Kinh điển
Chẳng hiểu có ích gì?
Thông suốt chỉ một câu
Tu hành sẽ đắc Đạo

[4]
Ngàn ngàn vạn quân địch
Một người thắng tất cả
Chẳng bằng tự hàng tâm
Đó là thắng cao nhất

[5]
Thắng mình làm thánh hiền
Xứng danh bậc nhân hùng
Hộ ý điều thân tâm
Luôn tự diệt niệm tà

[6]
Dù là trời chí tôn
Thần ma, Phạm, thiên đế
Thảy đều chẳng thể hơn
Ai đã tự thắng mình

[7]
Mỗi tháng tới miếu đền
Suốt đời không thôi nghỉ
Đâu bằng trong thoáng chốc
Nhất tâm niệm Chánh Pháp
Một niệm phước của Đạo
Hơn kẻ thờ trọn đời

[8]
Dù trọn cả trăm năm
Phụng thờ miếu thần lửa
Chẳng bằng trong khoảnh khắc
Cúng dường Phật Pháp Tăng
Phước đức một lần tu
Hơn kẻ thờ trăm năm

[9]
Cầu phước cúng tế thần
Hãy xem phước về sau
Bốn phần chưa được một
Đâu bằng lễ hiền nhân

[10]
Ai khéo làm việc lành
Thường kính bậc trưởng lão
Bốn phước tự nhiên tăng
Sắc, lực, thọ, an vui

[11]
Dù ai sống trăm năm
Xa Đạo không trì giới
Chẳng bằng sống một ngày
Giữ giới vào chánh định

[12]
Dù ai sống trăm năm
Tà ngụy không có trí
Chẳng bằng sống một ngày
Nhất tâm học chánh trí

[13]
Dù ai sống trăm năm
Lười biếng không tinh tấn
Chẳng bằng sống một ngày
Dũng mãnh hành tinh tấn

[14]
Dù ai sống trăm năm
Không biết việc thành bại
Chẳng bằng sống một ngày
Thấy nhân biết được quả

[15]
Dù ai sống trăm năm
Không thấy Đạo cam lộ
Chẳng bằng sống một ngày
Uống được vị cam lộ

[16]
Dù ai sống trăm năm
Không biết nghĩa Đại Đạo
Chẳng bằng sống một ngày
Tu học Phật Pháp yếu

Phẩm 17: Tội Chướng


Phẩm Tội Chướng có 22 bài kệ. Đại ý của phẩm này là thương cảm những kẻ làm ác--do nghiệp ác nên phải thọ tội báo. Nếu ai không làm ác, họ sẽ không gặp hoạn nạn.

[1]
Thấy thiện chẳng vâng làm
Tâm ác vội chạy theo
Cầu phước không chân chánh
Lại còn thích tà dâm

[2]
Hễ ai làm việc ác
Tự mình không tỉnh ngộ
Ngu si khoái chí làm
Về sau chịu thống khổ

[3]
Kẻ ác gây bạo ngược
Lâu dần thành thói quen
Những ai ham dục lạc
Tội báo tự nhiên thành

[4]
Người hiền tu phước đức
Tích tụ ngày càng tăng
Trong lòng nguyện làm lành
Phước báo tự nhiên thành

[5]
Yêu nghiệt hưởng phước báo
Bởi ác chưa chín mùi
Đến khi ác chín mùi
Tai vạ tự chuốc lấy

[6]
Hiền lương gặp tai họa
Bởi thiện chưa chín mùi
Đến khi thiện chín mùi
Sẽ thọ phước báo đó

[7]
Đánh người bị người đánh
Oán thù gặp oán thù
Chửi người bị người chửi
Phẫn nộ gặp phẫn nộ

[8]
Người đời không nghe thấy
Chẳng biết Phật Chánh Pháp
Sanh ra thọ mạng ngắn
Sao còn làm việc ác?

[9]
Chớ khinh việc ác nhỏ
Cho rằng không tai họa
Giọt nước tuy cỏn con
Lâu dần cũng đầy thùng
Tội ác đầy rẫy khắp
Từ nhỏ tích tụ thành

[10]
Chớ khinh việc thiện nhỏ
Cho rằng không phước báo
Giọt nước tuy cỏn con
Lâu dần cũng đầy thùng
Phước lành đầy rẫy khắp
Từ nhỏ tích tụ thành

[11]
Việc làm của phàm phu
Bất luận tốt hay xấu
Thảy đều vì bản thân
Quả báo luôn ứng theo

[12]
Những ai giỏi cướp đoạt
Sẽ tự có khả năng
Chiếm lấy của kẻ khác
Nhưng cũng bị người đoạt

[13]
Ác báo không vội đến
Ví như vắt sữa bò
Nghiệp tội tại âm gian
Như lửa dưới tro tàn

[14]
Vui cười làm việc ác
Đã tạo thân chịu lấy
Gào khóc thọ tội báo
Tùy nghiệp tội đến vây

[15]
Làm ác không suy xét
Như bị giặc chặn bắt
Lôi đi mới tỏ ngộ
Tạo ác nên sa đọa
Về sau chịu khổ báo
Của tội trước gây ra

[16]
Như độc ung nhọt sưng
Như thuyền bị xoáy cuốn
Việc ác cứ diễn ra
Đầy rẫy cảnh tan thương

[17]
Làm ác vu khống người
Thanh bạch do chẳng uế
Tai ương tự trở về
Như bụi ném ngược gió

[18]
Lỗi lầm trót tạo xưa
Sám hối nay làm lành
Là đèn soi thế gian
Như trời không mây che

[19]
Việc làm của phàm phu
Về sau sẽ tự thấy
Làm thiện được quả lành
Làm ác gặp tai ương

[20]
Có tình có thai sanh
Kẻ ác đọa địa ngục
Làm thiện sanh lên trời
Vô vi đắc tịch diệt

[21]
Trên trời dưới biển sâu
Ẩn náu núi đá cao
Chẳng có một nơi nào
Thoát khỏi nghiệp ác xưa

[22]
Chúng sanh chịu khổ não
Già chết không thoát miễn
Chỉ có bậc thượng trí
Vô niệm đoạn ác tà

Phẩm 18: Dao Gậy


Phẩm Dao Gậy có 14 bài kệ. Đại ý của phẩm này là dạy người tu tập từ bi và đừng dùng dao gậy để tàn hại chúng sanh.

[1]
Tất cả đều sợ chết
Chẳng ai không sợ đau
Lấy mình làm thí dụ
Chớ đánh chớ giết hại

[2]
Luôn khéo an chúng sanh
Không dùng các độc hại
Hiện đời chẳng gặp họa
Hậu thế mãi bình an

[3]
Chớ nói lời thô ác
Phải sợ báo chiêu cảm
Lời ác mang tai vạ
Dao gậy về thân ta

[4]
Miệng nói lời hòa nhã
Như gõ vào chuông khánh
Bản thân không tranh luận
Độ đời tất dễ dàng

[5]
Đánh đập bậc hiền lương
Gièm pha người vô tội
Ương họa tăng gấp mười
Tai vạ chóng không tha

[6]
Sanh thời chịu đau đớn
Thân thể gãy tổn thương
Tự nhiên gặp não bệnh
Hoảng hốt tâm điên cuồng

[7]
Bị người vu khống oan
Quan liêu làm khốn khổ
Tài sản hao hụt hết
Thân quyến biệt ly tan

[8]
Nhà cửa vật sở hữu
Hỏa hoạn thiêu cháy rụi
Khi chết đọa địa ngục
Đó là mười tai ương

[9]
Lõa hình cắt râu tóc
Thân luôn mặc áo cỏ
Tắm gội ngồi trên đá
Si mê có ích gì?

[10]
Không phạt, phóng hỏa, giết
Cũng không cầu chiến thắng
Nhân ái khắp thiên hạ
Nơi đến chẳng hận thù

[11]
Trên đời nếu có người
Khéo mà biết hổ thẹn
Đó là cầu hướng thượng
Ví như cưỡi ngựa thuần

[12]
Ví như cưỡi ngựa thuần
Thẳng tiến chạy xa xăm
Nếu ai có tín giới
Nhiếp ý tâm tinh tấn
Tu Đạo trí tuệ thành
Liền diệt các khổ não

[13]
Nghiêm trì học Phật Pháp
Đoạn dục tu tịnh hành
Chúng sanh không tổn hại
Là Đạo của Đạo Nhân

[14]
Chúng sanh không tổn hại
Trọn đời không hoạn nạn
Luôn từ với tất cả
Còn ai khởi oán thù?

Phẩm 19: Già Suy


Phẩm Già Suy có 14 bài kệ. Đại ý của phẩm này là khuyên dạy mọi người cần phải tinh tấn tu hành và đừng tranh danh đoạt lợi--chớ để khi già mới hối hận thì có ích gì?

[1]
Có gì mà vui sướng?
Thế gian luôn bốc cháy
Xấu ác chốn tối tăm
Chẳng bằng cầu định tuệ

[2]
Hãy quán thân thể này
Chớ cậy cho là an
Vọng tưởng tất sanh bệnh
Phải biết thân chẳng thật

[3]
Lúc già nhan sắc tàn
Bệnh tật không tươi sáng
Da nhăn cơ bắp teo
Cái chết sắp cận kề

[4]
Khi chết thức ra đi
Như người lìa bỏ xe
Thịt rã xương rải rác
Thân này làm sao hộ?

[5]
Thân thể ví như thành
Xương cốt thịt bao phủ
Từ sanh đến già chết
Chỉ chứa kiêu mạn sân

[6]
Lúc già nhan sắc tàn
Tựa như cỗ xe cũ
Pháp lành khéo trừ khổ
Cho nên hãy gắng tu

[7]
Làm người không học hỏi
Lúc già như bò đực
Nó chỉ tăng béo phì
Chẳng có chút phước tuệ

[8]
Sanh tử vô số lần
Đến đi đầy gian khó
Ý cậy tham luyến thân
Sanh tử khổ muôn vàn

[9]
Người trí thấy ách khổ
Cho nên lìa bỏ thân
Diệt ý đoạn các hành
Ái tận chứng vô sanh

[10]
Đã chẳng tu tịnh hành
Lại còn không tích của
Lúc già như cò trắng
Ôm giữ cái ao khô

[11]
Đã chẳng giữ giới luật
Lại còn không tích của
Già suy khí lực kiệt
Thử hỏi có ích gì?

[12]
Già như lá mùa thu
Thân tàn làm sao quản?
Bệnh tật bỗng kéo đến
Sau nuối tiếc ích gì?

[13]
Mạng sống ngày đêm giảm
Hãy mau gắng nỗ lực
Thế gian là vô thường
Chớ mê, đọa tối tăm

[14]
Hãy thắp ngọn đèn tâm
Tu học cầu trí tuệ
Lìa cấu chớ nhiễm ô
Cầm đuốc soi đường đi

Phẩm 20: Ái Thân


Phẩm Ái Thân có 13 bài kệ. Đại ý của phẩm này là khuyên hãy dùng thân này để tu học Phật Pháp thì sau này sẽ có ích lợi cho bản thân; khi tội diệt phước liền sanh.

[1]
Nếu ai quý thân mình
Thận trọng mà bảo hộ
Như muốn trừ ái dục
Học Pháp chớ ngủ say

[2]
Thân là trân quý nhất
Tự mình luôn gắng học
Thông đạt rồi dạy người
Kiên định trí tuệ sanh

[3]
Trước hãy tự chân chánh
Rồi sau dạy người khác
Nếu ai tự chân chánh
Mới gọi là thượng nhân

[4]
Nếu mình chưa an vui
Làm sao lợi kẻ khác?
Thân tâm đã điều phục
Nguyện gì mà chẳng thành?

[5]
Việc này xưa ta tạo
Về sau ta tự thọ
Làm ác tự chuốc lấy
Như kim cang xuyên báu

[6]
Nếu ai chẳng trì giới
Ví như dây leo quấn
Dục tình thêm cực mạnh
Việc ác ngày càng tăng

[7]
Làm ác nguy hại thân
Kẻ ngu cho dễ làm
Làm thiện thân an vui
Kẻ ngu bảo khó làm

[8]
Theo lời dạy thánh nhân
Dùng Đạo làm lẽ sống
Kẻ ngu sanh ganh ghét
Khi thấy sanh lòng ác
Gây ác chịu ác báo
Ví như gieo nhân khổ

[9]
Làm ác tự thọ tội
Làm lành tự thọ phước
Khi nghiệp đã chín mùi
Nó sẽ chẳng đổi thay
Tu thiện sẽ được thiện
Cũng như trồng trái ngọt

[10]
Lợi mình và lợi người
Lợi ích chẳng lãng phí
Muốn biết lợi ích thân
Giới văn là tối thượng

[11]
Như muốn lo cho mình
Muốn sanh về cõi trời
Kính mến nghe giáo Pháp
Hãy nhớ lời Phật dạy

[12]
Suy nghĩ trước khi làm
Chớ làm việc tổn hại
Tâm ý được như thế
Việc làm chẳng uổng công

[13]
Trượng phu làm việc gì
Tất đều được lợi ích
Thấy thiện hãy nên làm
Như thế sở nguyện thành

Phẩm 21: Thế Tục


Phẩm Thế Tục có 14 bài kệ. Đại ý của phẩm này là nói thế gian như huyễn hóa và như giấc mộng. Cho nên hãy xả bỏ thế giới phù du mà gắng sức tu Đạo.

[1]
Như xe đi trên đường
Lìa bỏ lối bằng phẳng
Hư hoại theo lối hiểm
Trục gãy tất âu lo

[2]
Lìa bỏ Pháp như thế
Do đó phi pháp tăng
Kẻ ngu giữ đến chết
Cũng bị ương hoạn khổ

[3]
Tùy thuận hành Chánh Đạo
Chớ có theo tà nghiệp
Đi đứng nằm ngồi an
Đời đời chẳng hoạn nạn

[4]
Vạn vật như bọt nước
Ý niệm như ảo ảnh
Thế gian như huyễn hóa
Sao còn thích nơi đó?

[5]
Nếu ai trừ ái dục
Chặt đứt cả gốc rễ
Ngày đêm tu như thế
Họ sẽ vào thiền định

[6]
Bố thí với thành tín
Người ấy được an vui
Tâm ý mà phiền não
Dù có dâng thức ăn
Kẻ đó suốt đêm ngày
Tâm ý chẳng an định

[7]
Thế gian chẳng có mắt
Không thấy Đạo chân thật
Như ai thấy chút sáng
Thiện ý hãy vun bồi

[8]
Như nhạn dẫn cả bầy
Tránh lưới bay lượn cao
Người trí dẫn thế gian
Vượt thoát khỏi tà mê

[9]
Thế gian đều phải chết
Khắp ba cõi không an
Chư thiên tuy vui sướng
Phước hết cũng tiêu tan

[10]
Hãy quán sát thế gian
Có sanh ắt phải chết
Muốn lìa sanh già chết
Chánh Đạo nên tu hành

[11]
Si mê trùm thiên hạ
Tham dục nên chẳng thấy
Tà nghi lìa bỏ Đạo
Ngu si khổ theo sau

[12]
Nên lìa xa một pháp
Đó là người nói dối
Không ác gì chẳng làm
Đời sau khổ chẳng tha

[13]
Dù trữ nhiều trân bảo
Cao tột đến cõi trời
Như thế khắp thế gian
Đâu bằng thấy dấu Đạo

[14]
Ác xem như điều thiện
Ái xem như chẳng ái
Lấy khổ cho là vui
Cuồng phu bị chôn vùi

Kinh Pháp Cú ♦ Hết quyển thượng


Soạn tập: Tôn giả Pháp Cứu
Dịch sang cổ văn: Pháp sư Chướng Ngại và những vị khác ở Thế Kỷ 3
Dịch sang tiếng Việt: Tại gia Bồ-tát giới Thanh tín nam Nguyên Thuận
Dịch nghĩa: 28/8/2014 ◊ Cập nhật: 26/4/2023

Cách đọc âm tiếng Phạn

Bhikṣu: bíc su
Đang dùng phương ngữ: BắcNam